CHƯƠNG 2:
ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
3.1 Ảnh hưởng của thuế xuất khẩu
Chương vừa rồi đã trình bày những công cụ chính sách thương
mại khác nhau. Tuy nhiên, chưa phân tích nhiều đến ảnh hưởng
của những công cụ này đến lợi ích đạt được của quốc gia
sử dụng chúng. Giống với bất kỳ công cụ chính sách nào, chính
sách thương mại được đưa ra cũng có chi phí và nguồn lợi
của nó. Chương này sẽ xem xét đến những người hưởng lợi và
mất mát khi những biện pháp bóp méo thương mại được thực
hiện. Hiệu quả thực của toàn quốc gia cũng được xem xét trong
chương này.
Ảnh hưởng trực tiếp của việc hạn chế thương mại xảy ra trong thị trường của hàng hóa chịu tác động của các chính sách hạn chế thương mại. Khi việc phân tích ảnh hưởng của chính sách liên quan đến chỉ một thị trường và những ảnh hưởng phụ đến những thị trường có liên quan được bỏ qua, lúc đó một phân tích cân bằng từng phần sẽ được thực hiện. Trong khi những ảnh hưởng mạnh mẽ nhất rơi vào một thị trường đặc trưng, thì cũng cần phải nhớ đến những ảnh hưởng phụ. Bởi vì những ảnh hưởng phụ này hoặc những ảnh hưởng gián tiếp thường thì quan trọng, nên những nhà kinh tế cố gắng để xem xét những ảnh hưởng của các chính sách kinh tế trong mô hình cân bằng chung. Trong mô hình này thị trường của tất cả các sản phẩm sẽ được phân tích một cách mô phỏng và tổng số ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp của một chính sách nào đó sẽ được xác định. Bởi vì cả hai ảnh hưởng cân bằng chung và cân bằng từng phần đều rất quan trọng cho việc phân tích chính sách, nên ta sẽ sử dụng cả hai cáh tiếp cận này để xem xét những ảnh hưởng của các công cụ chính sách. Hai phần đầu trong chương này sẽ được dành cho việc phân tích những hạn chế thương mại trong một ngữ cảnh cân bằng từng phần. Phần thứ ba sẽ là một phân tích theo cách tiếp cận cân bằng chung.
I. NHỮNG HẠN NGẠCH THƯƠNG MẠI TRONG MÔ HÌNH CÂN BẰNG TỪNG PHẦN: TRƯỜNG HỢP ĐẤT NƯỚC NHỎ |
1/ Ảnh hưởng của thuế quan nhập khẩu |
Trước hết, chúng ta sẽ xem xét một thị trường mà trong
đó một đất nước nhỏ (người nhận giá cả thị trường) sẽ
nhập khẩu một sản phẩm bởi vì giá cả quốc tế thấp hơn giá
cả cân bằng trong nước trước khi thương mại tự do xảy ra (xem
đồ thị 1). Bởi vì bất kỳ đất nước nào đều có thể nhập
khẩu tất cả những hàng hóa mà nó muốn tại giá cả quốc tế
(Pint), nên giá cả trong nước (P0) sẽ giống với Pint. Nếu đất
nước nhỏ đặt ra một thuế quan nhập khẩu, thì giá cả trong nước
của những hàng hóa nước ngoài sẽ gia tăng bởi một lượng
thuế. Với một thuế quan tính theo giá trị hàng hóa, thì giá cả
trong nước bây giờ sẽ là: Pint(1+t) = P1(với một thuế quan tính
theo số lượng hàng nhập thì P1 = Pint + tspecìic.). Với một sự
gia tăng của giá cả trong nước từ P0 đến P1, thì lượng cung
trong nước sẽ gia tăng từ QS0 đến QS1, và lượng cầu trong nước
sẽ giảm xuống từ QD0 đến QD1. Lúc đó, lượng hàng hóa nhập
khẩu sẽ giảm xuống từ (QD0- QS0) đến (QD1- QS1). Vậy ảnh hưởng
thực của những thay đổi này là gì? để trả lời câu hỏi này
chúng ta sẽ xem xét những chi phí và nguồn lợi của các tác nhân
kinh tế có liên quan đến một chính sách nào đó.
Ðồ
thị 1: Ảnh hưởng của một thuế quan đến thị trường riêng
lẻ trong một đất nước nhỏ
Trong đất nước nhỏ, việc đặt ra một tỷ suất thuế
quan t sẽ làm cho giá cả trong nước gia tăng bởi một lượng tP0,
có nghĩa là giá cả mới sẽ bằng Pint(1+t). Sự gia tăng giá cả
từ P0 đến P1 sẽ làm cho lượng cầu giảm xuống từ QD0 đến
QD1 và lượng cung trong nước sẽ tăng từ QS0 đến QS1, đồng
thời lượng hàng nhập khẩu sẽ giảm xuống từ (QD0-QS0) đến
(QD1-QD0).
Ðể đo lường ảnh hưởng của một thuế quan, chúng ta sẽ
sử dụng những khái niệm về thặng dư sản xuất và thặng dư
tiêu dùng. Như ta đã biết, khái niệm thặng
dư tiêu dùng là vùng nằm dưới đường cầu, trên đường giá. Nó
phản ảnh thực tế rằng, tất cả những người mua sẽ chi cùng
một giá cả thị trường không chú ý đến cái mà họ có thể
sẵn lòng chi. Cuối cùng, người tiêu dùng sẽ nhận được một
thặng dư (xem đồ thị 2). Khi giá cả thị trường gia tăng thì
thặng dư này của người tiêu dùng sẽ giảm xuống và ngược
lại.
Ðồ
thị 2: Thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất
Tương tự, khái niệm thặng dư sản xuất là vùng nằm trên
đường cung, dưới đường giá. Bởi vì tất cả những nhà sản
xuất sẽ nhận cùng một giá cả thị trường, nên thặng dư sẽ
xảy ra cho tất cả những hàng hóa có chi phí sản xuất cận biên
thấp hơn giá cả nhận được. Khi giá cả tăng, thặng dư sản
xuất sẽ gia tăng và ngược lại. Do vậy, một sự thay đổi trong
giá cả thị trường sẽ dẫn đến một sự chuyển giao thặng dư
giữa những nhà sản xuất và người tiêu dùng. Với một sự gia
tăng trong giá cả, thặng dư sản xuất sẽ gia tăng và thặng dư
tiêu dùng sẽ giảm xuống. Ðối với một giá cả giảm thì
thặng dư sẽ được chuyển giao từ nhà sản xuất đến người
tiêu dùng.
Ðồ thị 3: Ảnh hưởng phúc lợi của thuế quan trong một đất nước nhỏ
Mức
thuế quan 20% đã làm cho giá cả trong nước tăng từ $5 đến $6.
Ðiều này dẫn đến một sự mất mát trong thặng dư tiêu dùng
bằng với vùng ABFH. Bởi vì giá cả gia tăng, nên những nhà sản
xuất đạt được thặng dư bằng với diện tích ABCJ. Chính phủ
đạt được một mức thu nhập bằng với diện tích KCFG.Khoảng
mất mát thặng dư tiêu dùng không chuyển cho cho nhà sản xuất cũng
như cho chính phủ bằng với diện tích của hai tam giác JCK và GFH.
Khoảng mất mát này được xem như là sự mất mát hiệu quả về
số lượng do thuế quan mang lại và phản ảnh hiệu quả phúc
lợi thực của đất nước đưa ra thuế quan.
Bây giờ chúng ta sẽ tách ra những ảnh hưởng mang lại từ
thuế quan trên một thị trường
và ước lượng về mặt khái niệm những ảnh hưởng khác đến
người hưởng lợi và người bị thiệt. Hai tác nhân đạt được
nguồn lợi từ thuế quan nhập khẩu là nhà sản xuất và chính
phủ. Trong đồ thị 3, với một mức thuế quan 20%
sẽ làm cho giá cả trong nước gia tăng từ $5 đến $6, làm
gia tăng thặng dư sản xuất bằng với vùng ABCJ, lúc đó chính
phủ sẽ thu được mức thuế là $1 trên mỗi đơn vị sản phẩm
của mức hàng hóa nhập khẩu mới, tổng khoảng thuếthu được
của chính phủ bằng với vùng KCFG. Người tiêu dùng là người
chịu thiệt trong chính sách này, bởi vì họ phải chi một giá
cả cao hơn, do đó lượng cầu sẽ giảm xuống. Ðiều này dẫn đến
một sự mất mát trong thặng dư tiêu dùng bằng với diện tích
ABFH. Vậy ảnh hưởng thực của chính sách này ra sao? Ðiều này có
thể được giải thích là một phần sự mất mát trong thặng dư
tiêu dùng được chuyển cho chính phủ (KCFG) và một phần khác cho
nhà sản xuất (ABCJ). Còn phần mất mát của người tiêu dùng không
được chuyển cho ai tương đương với diện tích JCK và GFH. Hai vùng
này là sự mất mát về số lượng hàng nhập khẩu của thuế
quan và thể hiện cho chi phí thực của xã hội cho việc bóp méo
giá cả thị trường thương mại tự do trong nước. Chúng có thể
được xem như là sự mất mát hiệu quả được dẫn đến từ
chi phí sản xuất trong nước cao hơn (JCK) và sự mất mát trong
thặng dư tiêu dùng do thuế quan mang lại (GHF) trên những hàng hóa
mà người tiêu dùng không còn mua nữa. Bởi vì giá cả sản phẩm
cao hơn được dẫn đến từ thuế quan nên người tiêu dùng sẽ
chuyển sang sử dụng sản phẩm khác có độ thỏa dụng biên
thấp hơn.
Những thay đổi về thặng dư sản xuất và thặng dư tiêu dùng
ở trên cho phép chúng ta tính toán giá trị sự ảnh hưởng của
thuế quan. Thí dụ, vùng ABFH (mất mát thặng dư tiêu dùng do có
thuế quan) bằng với diện tích của tứ giác ABFG cộng với diện
tích của tam giác GFH. Giống vậy, giá trị đạt được của
thặng dư sản xuất bằng với diện tích của tứ giác ABIJ cộng
với diện tích của tam giác JIC (bằng với diện tích JCK). Thu
nhập của chính phủ bằng với diện tích của tứ giác KCFG. Sử
dụng những lượng và giá cả thích hợp từ đồ thị 3, ta có
những ảnh hưởng khác nhau như sau
Thay đổi trong thặng dư tiêu dùng (-) = ($1) (160) + (1/2) ($1)
(30) = - $175
Thay đổi trong thặng dư sản xuất (+) = ($1) (100) + (1/2) ($1)
(20) = + $110
Thay đổi trong thu nhập của chính phủ (+) = ($1) (40) = + $40
Mất mát về số lượng = ($1) (1/2) (20) + (1/2) ($1) (30) = + $25
Do
vậy có một chi phí thực là $25 cho xã hội do có thuế quan (-$175
+ $110 + $40). Tuy nhiên cần cẩn thận khi giải thích những giá
trị chính xác này trong khuôn khổ phúc lợi. Bởi vì $1 của thu
nhập có thể mang lại độ thỏa dụng khác nhau đối với những
cá nhân khác nhau. Khó khăn để xác định mức độ chính xác
của phúc lợikhi thu nhập thực được dịch chuyển giữa hai tác
nhân (người tiêu dùng và người sản xuất). Thêm vào đó, một
phần sự mất mát trong thặng dư tiêu dùng có thể được đền bù
bởi chính phủ bằng thu nhập đạt được từ thuế quan. Tuy nhiên,
rõ ràng là có một chi phí hiệu quả thực cho xã hội bất cứ lúc
nào giá cả bị bóp méo.
2/
Ảnh hưởng của hạn ngạch nhập khẩu và trợ cấp cho ngành
sản xuất cạnh tranh nhập khẩu. |
Phân tích ở trên cho là một thuế quan sẽ tạo ra một sự
mất hiệu quả thực và phúc lợi, do vậy vấn đề được đặt
ra ở đây là ảnh hưởng của những chính sách hạn chế thương
mại khác như hạn ngạch nhập khẩu hay trợ cấp sản xuất trong
nước ra sao? So với thuế quan về mặt hiệu quả kinh tế và phúc
lợi ra sao?
2.1/ Hạn ngạch nhập khẩu |
Như ta đã biết, một hạn ngạch nhập khẩu sẽ hạn chế lượng
hàng hóa và dịch vụ được nhập khẩu. Hạn ngạch này sẽ làm
giảm lượng hàng hóa sẵn có cho tiêu dùng, cuối cùng dẫn đến
giá cả trong nước gia tăng. Giá cả trong nưóc sẽ tiếp tục gia
tăng cho đến khi lượng cung trong nước tại mức giá cao hơn
cộng với lượng hàng hóa được nhập khẩu qua hạn ngạch bằng
với lượng cầu bị giảm xuống. Do vậy, hạn ngạch sẽ làm
hạn chế lượng cung, gây ra giá cả thay đổi. Ðiều này trái
lại với thuế quan - dẫn đến sự điều chính lượng cung cầu
thông qua việc cố định một giá cả trong nước cao hơn. Những
ảnh hưởng thị trường đến cả hai trường hợp thì như nhau.
Trở lại đồ thị 3, việc đưa ra mức thuế quan 20% đã làm cho
giá cả trong nước tăng lên đến $6 và lượng nhập khẩu giảm
xuống từ 90 đơn vị đến 40 đơn vị, khi lượng cung trong nước
gia tăng và lượng cầu giảm xuống. Việc đưa ra một hạn ngạch
40 đơn vị có thể sẽ đưa ra một kết quả rất giống vậy!
Với lượng nhập khẩu theo hạn ngạch này sẽ làm cho giá cả
trong nước gia tăng và tiếp tục gia tăng cho đến khi lượng cung
trong nước cộng với lượng cung được nhập khẩu theo hạn
ngạch bằng với lượng cầu. Do vậy, mỗi hạn ngạch có một
mức thuế quan tương đương và cũng như mỗi mức thuế quan có
một hạn ngạch tương đương.
Trong khi những ảnh hường thị trường của thuế quan và
hạn ngạch giống nhau, thì ảnh hưởng phúc lợi không giống nhau.
Bởi vì những điều chỉnh giá và lượng thì giống nhau dưới
cả hai công cụ, cho nên những thay đổi trong thặng dư sản xuất
và tiêu dùng cũng như những mất mát
hiệu quả cũng sẽ giống nhau. tuy nhiên, ảnh hưởng thu
nhập của chính phủ thì khác nhau. Ðối với một thuế quan, chính
phủ sẽ nhận được một khoảng thu nhập bằng với mức thuế
quan nhân cho lượng hàng nhập khẩu. Còn đối với hạn ngạch thì
điều này không xảy ra. trong thực tế, sự khác nhau giữa giá
cả quốc tế và giá cả trong nước của hàng nhập khẩu là một
phí hạn ngạch kinh tế đối với những nhà nhập khẩu và bán
lẻ trong nước, nhà cung cấp nước ngoài và chính phủ, hoặc là
được phân chia trong số ba tác nhân đó. Những nhà nhập khẩu và
bán lẻ trong nước sẽ nhận một khoảng tiền nếu như những nhà
cung cấp nước ngoài không có ý định giá cả hàng xuất khẩu và
nếu như chính phủ không bán không bán giấy phép nhập khẩu.
Những nhà cung cấp nước ngoài nhận được khoảng hạn ngạch
nếu như họ hoạt động như một quốc gia không cạnh tranh hay độc
quyền. Tuy nhiên cũng có thể là chính phủ của nước xuất khẩu
lập ra một lịch trình xuất khẩu hàng hóa theo hạn ngạch nhận
được; thí dụ như chính phủ của nước xuất khẩu sẽ bán
giấy phép xuất khẩu với giá bằng với chênh lệch giá thế
giới và giá trong nước của nước cấp hạn ngạch. Nếu hoặc là
nhà xuất khẩu, hoặc là chính phủ của nước xuất khẩu nhận
được khoảng tiền cho thuê hạn ngạch, lúc đó mất mát phúc
lợi cho nước nhập khẩu sẽ lớn hơn so với việc đất nước
đó đưa ra một thuế quan tương đương.
2.2/
Trợ cấp cho ngành cạnh tranh nhập khẩu |
Ảnh hưởng của một thuế quan và hạn ngạch trên thị trường
và phúc lợi có mức độ quan trọng như nhau, ngoại trừ việc phân
phối tiền cho thuê hạn ngạch. Kết luận này không đúng với
những chính phủ thực hiện việc trợ cấp cho những nhà sản
xuất những ngành cạnh tranh nhập khẩu. Nếu mục đích của
thuế quan hay hạn ngạch là làm tăng động lực sản xuất và thương
mại trong nước, lúc đó kết quả sản xuất trong nước tương
tự có thể xảy ra bởi việc chi một khảong trợ cấp đủ lớn
cho những nhà sản xuất trong nước, lúc đó họ sẽ sẵn lòng
cung cấp một lượng hàng hóa thay vì phải nhập khẩu tại giá
cả thế giới (xem đồ thị 4). Ảnh hưởng của việc trợ cấp là
sẽ dịch chuyển đường cung trong nước đi xuống theo trục đứng
cho đến khi nó cắt đường giá cả thế giới.
Ðồ
thị 4: Những ảnh hưởng thị trường đơn lẻcủa trợ cấp đến
những nhà sản xuất trong nước
Mức
trợ cấp của chính phủ là $1 cho mỗi đơn vị sản phẩm được
sản xuất có ảnh hưởng làm dịch chuyển đường cung S theo hướng
đi xuống song song với đường cung cũ và trở thành đường cung
S. Những nhà sản xuất bây giờ sẽ sản xuất 120 đơn vị thay vì
100 đơn vị tại mức giá cả thế giới $5. sự nối kết của giá
cả thế giới $5 và trợ cấp $1 sẽ đặt những nhà sản xuất
trong tình trạng giống như việc chính phủ đưa ra mức thuế quan
20%. Tuy nhiên, những ảnh hưởng về phúc lợi thì khác. Bởi vì
những người tiêu dùng sẽ tiếp tục chi tại giá cả thế giới,
nên thăng dư tiêu dùng của họ không giảm trên thị trường này.
Những nhà sản xuất nhận một sự giao chuyển nguồn lợi bằng
với diện tích ABCK từ chính phủ. Trong đó, ABCJ biểu hiện cho
khoảng nguồn lợi đạt được trong thặng dư sản xuất và JCK là
khoảng mất mát hiệu quả do số lượng nhập giảm xuống. Chi phí
trợ cấp của những người đóng thuế bằng với lượng chuyển
giao trợ cấp bằng với diện tích ABCK.
Với một trợ cấp tương đương, những nhà sản xuất sẽ
có lợi như là việc đặt ra một thuế quan nhập khẩu. Việc
trợ cấp sản xuất không chỉ làm cho thặng dư sản xuất của nhà
sản xuất trong nước gia tăng mà còn bù đắp cho họ phần chi phí
sản xuất cao hơn của những hàng hóa được sản xuất thêm. Chi
phí của chính phủ (vùng ABCK) bằng với lượng được sản xuất
trong nước (120 đơn vị) nhân cho lượng trợ cấp ($1) hoặc là
bằng $120. Tuy nhiên, chú ý rằng không có sự thay đổi giá cả
thị trường trong nước; giá cả này sẽ bằng với giá cả thế
giới trong trường hợp có trợ cấp sản xuất. Không có sự mất
mát trong thặng dư tiêu dùng
và không có sự mất mát số lượng tiêu dùng. Tuy nhiên, sản
xuất trong nước gia tăng tại một chi phí nguồn lực cao hơn giá
cả thế giới sẽ dẫn đến một sự mất mát trong hiệu quả
trong sản xuất, được biểu hiện bằng vùng JCK. Mất mát này
bằng với lượng mà tại đó chi phí trợ cấp
(ABCK) cao hơn lượng tăng thặng dư sản xuất (ABCJ). Ðây có
thể được xem là chi phí dẫn đến từ việc lựa chọn nguồn
cung cấp từ nước xuất khẩu có chi phí thấp đến nguồn cung
trong nước có chi phí cao hơn.
Từ quan điểm phúc lợi,việc trợ cấp sản xuất chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn thuế quan hay hạn ngạch. Nếu những người tiêu dùng cũng là những người đóng thuế, thì chi phí trợ cấp ($120) sẽ thấp hơn sự mất mát trong thặng dư tiêu dùng ($175) do thuế quan hay hạn ngạch mang lại. Trong trường hợp những người tiêu dùng sản phẩm nào đó không phải là những người đóng thuế duy nhất, lúc đó việc trợ cấp thậm chí hấp dẫn hơn cho đất nước. Từ quan điểm chi phí-lợi nhuận, chi phí bảo hộ một ngành trong nước có thể được gánh vác bởi những người nhận lợi nhuận từ những sản phẩm được sản xuất nhiều hơn. Trong trường hợp việc bảo hộ ngành nhằm mang lại lợi ích chung cho xã hội, lúc đó chính phủ là người gánh vác tàon bộ chi phí, còn người tiêu dùng nó thì không phải chịu đựng khoảng chi phí này.
3/ Ảnh hưởng của những chính sách xuất khẩu |
3.1/ Ảnh hưởng của thuế xuất khẩu |
Dưới đây chúng ta sẽ xem xét ảnh hưởng của ba loại chính
sách xuất khẩu - thuế xuất khẩu, hạn ngạch xuất khẩu và
trợ cấp xuất khẩu. Việc đưa ra thuế xuất khẩu - loại thuế
đánh trên những hàng hóa được xuất khẩu- sẽ dẫn đến một
sự gia giảm giá cả trong nước khi những nhà sản xuất mở
rộng doanh số trong nước bởi việc hạ giá bán trong nước để
tránh đóng thuế trên những hàng xuất khẩu. Giá cả trong nước
(Pd) giảm xuống cho đến khi nó bằng với giá cả thế giới
(Pint) trừ đi lượng thuế (xem đồ thị 5). (chú ý là trong tình
trạng xuất khẩu thì những giá cả thế giới nằm ở trên giao
điểm của đường cầu và đường cung trong nước.) Khi điều này
xảy ra, những nguồn lợi đạt được và những mất mát một
lần nữa có thể được đo lường bởi việc sử dụng những khái
niệm thặng dư. Khi giá cả trong nước giảm xuống và lượng cung
nhỏ lại, lúc đó sẽ có một sự sụt giảm trong thặng dư sản
xuất bằng với diện tích hình thang ABFG. Phần mất mát này được
chuyển đến những người tiêu dùng trong nước thông qua giá cả
thấp hơn và sẽ tạo ra một sự gia tăng trong thặng dư tiêu dùng
bằng với diện tích ABCH. Thêm vào đó, chính phủ sẽ đạt được
mức thu nhập thuế bằng với diện tích HJEG. Cuối cùng, những
diện tích CJH và EFG biểu hiện những mất mát hiệu quả do số lượng
giảm được dẫn đến từ sự
bóp méo giá cả. Những diện tích này biểu hiện cho những mất mát
trong thặng dư sản xuất và sự mất mát này không được chuyển
cho bất cứ ai trong nền kinh tế.
Sau khi cộng hết tất cả các ảnh hưởng của chính sách
thuế xuất khẩu của những người hưởng lợi và bị thiệt, thì
ảnh hưởng thực của nền kinh tế mang dấu âm. Ðiều có thể
được nhấn mạnh ở đây là phản ứng cung cầu trong nước sẽ
dẫn đến một mức độ xuất khẩu sau thuế nhỏ hơn (khoảng HG)
so với trước thuế (khoảng CF). Do vậy, các quốc gia sẽ ước lượng
cao thu nhập thuế xuất khẩu mà họ sẽ được nhận nếu như
họ dựa vào mong đợi thu nhập của họ trên mức hàng hóa xuất
khẩu trước thuế hơn là mức hàng hóa xuất khẩu sau thuế. Dĩ
nhiên, khi cung và cầu trong nước càng ít co giãn thì ảnh hưởng
của thuế xuất khẩu đến lượng hàng hóa xuất khẩu sẽ nhỏ hơn
và chính phủi sẽ có thu nhập lớn hơn. Phản ứng của những nhà
sản xuất và người tiêu dùng càng ít co giãn, thì sự mất mát
hiệu quả do sản lượng giảm sẽ ít hơn.
Ðồ
thị 5: Ảnh hưởng của thuế xuất khẩu
Việc đưa ra thuế xuất khẩu sẽ làm giảm giá cả hàng hóa xuất khẩu bằng với mức thuế. Ðiều này sẽ làm giảm giá cả trong nước giảm xuống giảm xuống từ Pint đến Pd khi những nhà sản xuất trong nước mở rộng mua bán trong nước để tránh thuế xuất khẩu. Việc giảm giá cả trong nước này sẽ dẫn đến một sự mất mát trong thặng dư sản xuất bằng với diện tích ABFG, một sự gia tăng trong thặng dư tiêu dùng bằng với diện tích ABCH, một sự gia tăng trong thu nhập chính phủ bằng với diện tích HJEG và một sự mất mát hiệu quả do giảm sản lượng thương mại của quốc gia bằng với diện tích CJH và GEF.
3.2/ Ảnh hưởng của hạn ngạch xuất khẩu |
Nếu một hạn ngạch xuất khẩu thay vì một thuế xuất
khẩu được đưa ra, thì ảnh hưởng của nó cũng giống như ảnh
hưởng của thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, ảnh hưởng phúc lợi
của 2 công cụ này thì khác nhau bởi vì giống với hạn ngạch
nhập khẩu chính phủ sẽ không có thu nhập. Người nhận hạn
ngạch thì không rõ. Chính phủ của nước xuất khẩu có thể đòi
hỏi có được thu nhập bởi việc đưa ra những hạn ngạch xuất
khẩu. Trong một thị trường cạnh tranh, những nhà xuất khẩu có
thể sẵn lòng chi khoảng khác biệt trong giá cả giữa hai nước
xuất và nhập khẩu để được xuất khẩu. Nếu điều này xảy
ra, thì thu nhập từ hệ thống hạn ngạch sẽ bằng với thu nhập
từ thuế xuất khẩu. Nếu điều này không xảy ra, thì những nhà
xuất khẩu có thể tổ chức và hoạt động giống như một người
bán đơn lẻ nhằm đạt được hạn ngạch. Nếu những công ty
nhập khẩu được tổ chức, thì chúng có khả năng đạt được
hạn ngạch bởi việc mua sản phẩm tại giá cả thị trường
trong nước xuất khẩu và bán nó lại tại giá cả cao hơn tại
thị trường trong nước.
Ảnh hưởng phúc lợi thực sau cùng trong cả hai quốc gia
nhập khẩu và quốc gia đưa ra hạn ngạch phụ thuộc vào tổng
sự mất mát do lượng thương mại giảm và chuyển nhượng hạn
ngạch. Nước nhập khẩu có thể hưởng được nguồn lợi từ
việc đưa ra hạn ngạch xuất khẩu nếu như nó có thể đạt được
đủ hạn ngạch.
3.3/ Ảnh hưởng của trợ cấp xuất khẩu |
Công cụ sau cùng được xem xét đến là trợ cấp xuất
khẩu. Trong chương trước chúng ta đã ghi nhận rằng, một trợ
cấp xuất khẩu có tác động như là một thuế xuất khẩu âm.
Kết quả là, những ảnh hưởng của công cụ này có thể được
phân tích theo cách giống như đã được sử dụng khi phân tích
thuế xuất khẩu.
Trong một đất nước nhỏ, việc đưa ra một trợ cấp
xuất khẩu trực tiếp sẽ làm tăng giá cả được nhận bởi nhà
sản xuất trên mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu. Ðối với mỗi
đơn vị hàng hóa được xuất khẩu, nhà sản xuất nhận được
một giá cả bằng với giá cả quốc tế cộng với khoảng trợ
cấp. Do vậy sẽ tạo động lực cho nhà sản xuất có động lực
để bán gàng hóa cho thị trường nước ngoài.
Ðồ
thị 6: Ảnh hưởng của trợ cấp xuất khẩu
Trợ
cấp xuất khẩu sẽ dẫn đến một sự gia tăng giá cả trong nước
từ Pint đến PD. Với sự gia tăng này,. làm cho thặng dư tiêu dùng
giảm xuống một lượng bằng với diện tích ABCJ, và một sự gia
tăng thặng dư sản xuất bằng với diện tích ABFH và một sự
mất mát do giảm lượng tiêu dùng cho xã hội bằng với diện tích
ECJ và HFG. Chi phí của chương trình trợ cấp là ECFG. Việc trợ
cấp sẽ làm cho sản xuất gia tăng từ Q2 đến Q4 và lượng hàng
hóa xuất khẩu gia tăng từ Q1Q2 đến Q3Q4.
Kết quả cuối cùng là trợ cấp xuất khẩu sẽ làm giảm lượng hàng bán nội địa và làm tăng giá cả trong thị trường nội địa bằng với giá cả quốc tế cộng với khoảng trợ cấp, và làm tăng lượng sản xuất trong nước nhằm tăng lượng xuất khẩu
II. NHỮNG HẠN CHẾ THƯƠNG MẠI TRONG MÔ HÌNH CÂN BẰNG TỪNG PHẦN: TRƯỜNG HỢP ĐẤT NƯỚC LỚN |
1.
Cơ sở phân tích |
Ðến đây, chúng ta đã sử dụng những đường cung và đường
cầu đối với một hàng hóa của một đất nước mà những chính
sách thương mại của nó không có ảnh hưởng đến giá cả thế
giới. Bây giờ, chúng ta sẽ chuyển đến việc xem xét những ảnh
hưởng của chính sách thương mại trong mô hình của một đất nước
lớn, ở đó có sự ảnh hưởng đến giá cả thế giới.
Ðể thuận lợi cho việc phân tích, chúng ta cần đề cập
đến một đường cầu và một đường cung đặc biệt: (a) đường
cầu nhập khẩu, khác với đường tổng nhu cầu của một hàng hóa,
và (b) đường cung xuất khẩu, khác với đường tổng cung của
một hàng hóa. Hai đường này là một khúc thị trường cầu và
cung của toàn bộ thị trường của một hàng hóa. Ảnh hưởng
của chính sách thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến những khúc
thị trường này, và đến lượt nó những khúc thị trường này
có ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường của một sản
phẩm.
1.1.
Nhu cầu hàng hóa nhập khẩu |
Ðồ
thị 7 dưới đây vẽ ra đường cung và đường cầu của một
sản phẩm trong một đất nước cụ thể nào đó. Sản phẩm này
có thể là thép và đất nước này có thể là Mỹ. Ðường cầu
Dh chỉ ra lượng thép (hoặc được sản xuất trong nước hoặc
ở nước ngoài) mà người tiêu dùng trong nước sẵn lòng mua tại
mỗi mức giá cụ thể suốt một thời kỳ. Ðường cung Sh chỉ ra
những lượng cung khác nhau mà những nhà sản xuất trong nước
sẵn lòng cung cấp cho thị trường suốt thời kỳ này tại những
mức giá khác nhau có thể. Chú ý rằng, những hàng hóa nhập
khẩu đơn giản là chênh lệch giữa cung và cầu trong nước. Do
vậy, nếu giá cả của thép là P0, thì cả những người tiêu dùng
và nhà sản xuất trong nước thỏa mãn với lượng Q0, do vậy không
có nhu cầu nhập khẩu sản phẩm này. Ðường cầu nhập khẩu
được dẫn ra trong đồ thị 7(b) và cho thấy lượng cầu nhập
khẩu tại giá P0 bằng 0.
Ðồ thị 7: Ðường cầu
nhập khẩu của một quốc gia
Ðồ
thị (a) vẽ ra nhu cầu hàng hóa của người tiêu dùng trong nước
(Dh) và lượng cung của những nhà sản xuất trong nước (Sh). Tại
mức giá P0, lượng cầu là (Q0) của người tiêu dùng bằng với lượng
cung của những nhà sản xuất trong nước, do vậy lượng cầu
nhập khẩu [được chỉ ra trong đồ thị (b)] tại mức giá
Pm0(=P0) bằng 0. Tại mức giá P2 thấp hơn người tiêu dùng trong nước
có nhu cầu tiêu dùng Q4 đơn vị sản phẩm nhưng những nhà sản
xuất trong nước chỉ cung có Q3 đơn vị, do vậy lượng cầu
nhập khẩu là Q4 - Q3. Lượng cầu nhập khẩu này bằng với lượng
Qm2 trong đồ thị (b) tại mức giá Pm2(=P2). Bởi việc dẫn ra tương
tự lượng chênh lệc giữa Dh và Sh tại tất cả các mức giá khác
dưới mức giá P0, đường cầu nhập khẩu Ðượcm của quốc gia
được dẫn ra.
Tuy nhiên, giả sử rằng giá cả ở Mỹ là P1. Tại mức giá
này, những người tiêu dùng trong nước muốn mua một lượng là
Q2 trong đồ thị (a), nhưng những nhà sản xuất trong nước chỉ
sẵn lòng cung một lượng là Q1. Do vậy, lượng vượt cầu bây
giờ là (Q2 - Q1), tạo ra lượng cầu nhập khẩu Qm1 tại mức giá
Pm1(=P1). Giống vậy, những lượng cầu nhập khẩu khác như Qm2 và
Qm3 được dẫn ra trong đồ thị (b), và cuối cùng đường cầu
nhập khẩu Dm được dẫn ra (lài hơn đường cầu Dh). Ðiều này
có nghĩa là đường cầu nhập khẩu nói chung co giãn hơn đường
cầu của hàng hóa. Cuối cùng, đường Dm và đường Dh giống nhau
tại mức giá bằng và thấp hơn mức giá mà tại đó sản xuất
trong nước không còn cung nữa cho thị trường.
1.2.
Ðường cung xuất khẩu |
Qui luật đơn giản để nhớ là khi dẫn ra đường cung xuất khẩu cho một quốc gia thì lượng cung xuất khẩu chính bằng chênh lệch giữa lượng sản xuất và tiêu dùng trong nước. Cách thức dẫn ra đường cung xuất khẩu giống với cách thức dẫn ra đường cầu nhập khẩu. Do vậy, đường cung Sh trong đồ thị 8 (a) chỉ ra lượng hàng hóa được cung bởi những nhà sản xuất trong nước tại các mức giá khác nhau, trong khi đường Dh lượng hàng hóa mà những người tiêu dùng trong nước sẵn lòng để mua tại các mức giá đó. Tại mức giá P0 không có lượng vượt cung bởi vì những người tiêu dùng trong nước sẵn lòng để mua tất cả những hàng hóa được sản xuất ra bởi những nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, tại mức giá P1 cao hơn xuất hiện lượng vượt cung, bởi vì tại mức giá cao hơn này đã khiến cho những người tiêu dùng trong nước mua ít lại trong khi những nhà sản xuất lại gia tăng sản xuất. Lượng vượt cung tại mức giá P1 là (Q2-Q1), tương ứng với lượng Qx1 trong đồ thị (b). Tại mức giá P2 cao hơn xuất hiện một lượng vượt cung lớn hơn (Q4-Q3), tương ứng với lượng Qx2 trong đồ thị (b). Cuối cùng, lượng Qx3 là lượng cung xuất khẩu tại mức giá P3. Ðường cung xuất khẩu Sx giống với đường cung trong nước Sh từ mức giá P3 trở lên. Ðiểm cần chú ý là, đường Sx lài hơn và co giãn hơn đường Sh cho đến mức giá Px3 (=P3).
Ðồ
thị (a) chỉ ra đường cầu sản phẩm của những người tiêu dùng
trong nước (Dh) và đường cung sản phẩm của những nhà sản
xuất (Sh). Tại mức giá P0, lượng sản phẩm được cung bởi
những nhà sản xuất trong nước là (Q0) bằng với lượng cầu
của người tiêu dùng trong nước, do vậy không có lượng cung
xuất khẩu ở đây [được chỉ ra trong đồ thị (b)] tại mức giá
Px0(=P0). Tại mức giá P2 cao hơn những nhà sản xuất trong nước
cung một lượng là Q4 đơn vị sản phẩm, nhưng những người tiêu
dùng trong nước chỉ tiêu dùng có một lượng Q3. Do vậy, lượng
cung xuất khẩu bây giờ là (Q4 - Q3). Lượng này bằng với Qx2
trong đồ thị (b) tại mức giá Px2 (=P2). Tương tự cách tiếp
cận như thế, đường cung xuất khẩu Sx được dẫn ra trong đồ
thị (b).
2.
Ảnh hưởng của thuế quan nhập khẩu |
Trong chương trước, chúng ta đã biết rằng thuế quan có
thể được tính trên số lượng hàng hóa nhập khẩu hoặc tính
trên giá trị hàng hóa nhập khẩu. Việc đưa ra thuế quan theo số
lượng nhập khẩu được chỉ ra trong đồ thị 9 (a) và thuế quan
được tính theo giá trị hàng hóa được chỉ ra trong đồ thị 9
(b). Ðường cầu Dm trong mỗi đồ thị là lượng cầu nhập khẩu
của sản phẩm, và đường cung đậm Sm là lượng cung hàng hóa
nhập khẩu - phần còn lại của lượng cung xuất khẩu của thế
giới- đối với đất nước này. Trước khi đưa ra thuế quan, giá
cả cân bằng là giao điểm của hai đường này, tại mức giá Pm0
và lượng cân bằng trên thị trường là Qm0. Khi thuế quan được
tính theo số lượng hàng nhập được đưa ra (thí dụ là 1 đô la
trên một đơn vị hàng nhập khẩu) trong đồ thị (a), lúc này
đường biểu diễn lượng cung hàng hóa nhập khẩu tương ứng là
Sm thay vì là Sm. Ðường cung hàng hóa nhập khẩu do vậy sẽ song
song với đường cung cũ. Kết quả là điểm cân bằng E sẽ dịch
chuyển đến điểm E. Người tiêu dùng lúc bấy giờ chi với một
giá cao hơn Pm1 và mua một lượng thấp hơn Qm1. Những nhà cung
cấp hàng nhập khẩu nước ngoài nhận được một giá cả thấp
hơn trên mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu Pm2 thay vì là Pm0. Xí
nghiệp nước ngoài sẽ nhận được một giá thấp hơn vì thuế
nhập khảu xuất hiện bởi vì có một lượng nhỏ hơn được mua
bởi xí nghiệp nước ngoài và giá cả bị đẩy xuống trong đất
nước lớn này, nơi mà nước nhập khẩu có thể làm ảnh hưởng
đến giá cả thế giới bởi việc đưa ra thuế nhập khẩu. Cuối
cùng, sự khác biệt giữa giá mà người tiêu dùng phải chi (Pm1) và
giá cả được nhận bởi những nhà sản xuất nước ngoài (Pm2)
chính bằng mức thuế quan trên mỗi đơn vị hàng hóa được
nhập khẩu.
Trong thí dụ này, tổng số thu nhập từ thuế nhập khẩu
của nhà nước của nước nhập khẩu đwọc thể hiện bằng vùng
Pm2Pm1EF. Một phần của khoảng thu nhập này được chi bởi những
người tiêu dùng trong nước, vùng Pm0Pm1EG. Phần còn lại thu được
từ những nhà xuất khẩu nước ngoài, vùng Pm2Pm0GF. Mức độ
thuế quan phải chi phụ thuộc quan trọng vào độ dốc của đường
Sm. Nếu như đường cung hàng hóa nhập khẩu lài hơn và co giãn hơn
thì người tiêu dùng phải gánh chịu thuế này nhiều hơn so với
những nhà sản xuất nước ngoài. Trong trường hợp nước nhập
khẩu là một nước nhỏ thì đường Sm sẽ là một đường
thẳng nằm ngang phản ảnh giá cả thế giới được đưa ra. Ðường
Sm sẽ song song và nằm trên đường Sm đúng một khoảng bằng
với lượng thuế quan trên một đơn vị hàng hóa nhập khẩu.
Trong trường hợp này, người tiêu dùng là người gánh chịu toàn
bộ mức thuế quan này, bởi vì giá cả thế giới (giá được
nhận bởi những nhà xuất khẩu) sẽ không thay đổi với việc
đưa ra thuế nhập khẩu. Ðiều cũng có thể được ghi nhận là
việc chia mức thuế quan thành hai phần phụ thuộc vào độ dốc
của đường Dm . Ðộ dốc của đường này lài hơn (hoặc co giãn
hơn), thì nhà sản xuất nước ngoài pahỉ gánh chịu nhiều hơn so
với người tiêu dùng trong nước nhập khẩu.
Trong cả hai đồ thị (a) và (b), điểm cân bằng thương
mại tự do tại điểm E- giao điểm giữa đường cầu nhập khẩu
(Dm) và đường cung những hàng hóa nhập khẩu (Sm). Với việc đưa
ra thuế quan tính theo số lượng hàng hóa nhập trong đồ thị (a),
thì Sm dịch chuyển thẳng đứng lên một khoảng bằng với mức
thuế trên mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu. Sm vì thế nằm trên
và song song với Sm. Việc đưa ra thuế quan tính theo giá trị hàng
hóa ở đồ thị (b) làm cho Sm dịch chuyển lên dọc theo trục tung
đến Sm. Tuy nhiên, Sm không song song với Sm, bởi vì với mỗi mức
lượng hàng hóa nhập khẩu, thì giá cả của hàng hóa này gia tăng
lên một lượng phần trăm cố định. Ðiểm cân bằng mới là E
trong cả hai đồ thị. Người tiêu dùng chi trả với một giá cả
cao hơn Pm1 trên mỗi đơn vị thay vì là Pm0, và những nhà xuất
khẩu nước ngoài nhận một giá cả thấp hơn (Pm2) trên mỗi đơn
vị thay vì Pm0. Thu nhập từ thuế quan thu được của chính phủ nước
nhập khẩu được chỉ ra bởi hai tứ giác Pm2Pm1EF trong đồ thị
(a) và (b).
Việc đưa ra thuế quan tính theo giá trị hàng nhập khẩu
được chỉ ra trong đồ thị (b). Sự khác biệt duy nhất so với
thuế quan được đưa ra trong đồ thị (a) là đường cung Sm không
song với Sm. Ðường cung mới dịch chuyển ra xa đường cung cũ
tại những mức giá cao hơn. Còn lại tất cả những kết quả khác
đều giống với trường hợp xảy ra trong đồ thị (a).
Trong một đất nước nhỏ, ảnh hưởng phúc lợi chung mang
dấu âm của thuế quan do người tiêu dùng trong thị trường của
nước nhập khẩu gánh vác. Tuy nhiên, trong một đất nước lớn
thì ảnh hưởng của thuế quan có thể được chia sẽ một phần
bởi nước xuất khẩu thông qua một sự sụt giảm giá cả quốc
tế. Sự sụt giảm này có nghĩa là giá cả trong nước bao gồm
cả thuế quan trong nước nhập khẩu lớn thấp hơn như có thể
nếu như giá cả quốc tế không thay đổi, sự mất mát trong
thặng dư tiêu dùng ít hơn, và chi phí bảo hộ mậu mậu dịch
thực ít hơn so với một đất nước nhỏ.
Ðể thấy được điều này xảy ra như thế nào, chúng ta phân
tích đồ thị 10 dưới đây, trong khuôn khổ của một thế giới
có hai quốc gia tham gia thương mại.
Việc
đưa ra thuế quan của đất nước lớn A làm giảm sức mua hàng hóa
nhập khẩu, dẫn đến một sự sụt giảm trong lượng cầu của
thế giới cũng như giá cả xuất khẩu trong đất nước B. Giá
cả thế giới sẽ giảm xuống cho đến khi lượng xuất khẩu được
cung tại giá cả mới bằng lượng cầu hàng hóa nhập khẩu của
đất nước A tại mức giá cả quốc tế cộng với mức thuế
quan, Pm1. Việc sụt giảm trong giá cả thế giới có nghĩa là giá
cả ở đất nước A không gia tăng bởi một lượng thuế quan hoàn
toàn. Kết quả là, lượng mất mát do số lượng sụt giảm ở đất
nước A, vùng a và b, thấp hơn so với cái mất mát ở đất nước
nhỏ, nơi mà giá cả thế giới không thay đổi khi thuế quan được
đưa vào. Thêm vào đó, sự sụt giảm trong giá cả quốc tế do
việc đưa thuế quan vào có nghĩa là nước xuất khẩu sẽ phải
chịu chi một phần thuế quan, vùng fhij trong đất nước B. Ðất nước
A có thể đạt được lợi ích từ việc đưa ra thuế quan nếu vùng
fhij ở đất nước B lớn hơn tổng (a+b) ở đất nước A.
Ðồ thị 10 chỉ ra tình trạng mà ở đó hai đất nước
lớn tham gia thương mại với nhau. Bởi vì đất nước A là nhà
sản xuất ra hàng hóa đang xem xét có chi phí cao hơn trước khi thương
mại tự do xảy ra, nên nó có động lực nhập khẩu sản phẩm này.
Tuy nhiên, để kích thích cho đất nước B sản xuất thêm, đất nước
A phải đưa ra một mức giá mua cao hơn mức giá trong thị trường
nội địa của đất nước B trước khi thương mại xảy ra. Ðất
nước A và B sẽ dẫn ra giá cả cân bằng quốc tế, Pm0. Nếu Pm0
giống như trong đồ thị 9(a) hoặc 9(b), thì lượng hàng hóa nhập
khẩu Qm0 trong đồ thị 10 bằng với Qm0 trong đồ thị 9.
Nếu đất nước A bây giờ đưa ra thuế quan trên sản phẩm
này thì giá cả của hàng hóa sẽ gia tăng trên mức Pm0 bằng với
lượng thuế quan. Khi điều này xảy ra sẽ có một sự gia tăng lượng
cung trong nước và một sự sụt giảm lượng cầu và lượng hàng
nhập khẩu trong đất nước A. Khi lượng nhập khẩu của đất nước
A bắt đầu giảm xuống, thì đất nước B sẽ xuất hiện một lượng
vượt cung tại mức giá Pm0, và bắt đầu hạ giá cả trong nước
xuống. Giá cả mới ở đất nước B sẽ dẫn đến một sự gia tăng
lượng cầu trong nước, một sự giảm cung và một sự sụt giảm
trong lượng hàng hóa xuất khẩu sẵn có. Sự sụt giảm trong giá
cả xuất khẩu của đất nước B có nghĩa là giá cả trong nước
bao gồm cả thuế quan trong đất nước A bắt đầu sụt giảm, kích
thích việc mua hàng hàng nhập khẩu nhiều hơn. Cuối cùng, giá
cả sẽ được điều chỉnh đồng thời trong cả hai thị trường
cho đến khi lượng nhập khẩu mong đợi, Qm1 trong đất nước A
tại mức giá cả bao gồm cả thuế quan, Pm1 bằng với mức hàng hóa
xuất khẩu mong đợi của đất nước B tại mức giá xuất khẩu
của nó, Pm2. Giá cả trong hai thị trường sẽ luôn luôn khác
biệt bằng với mức thuế quan.
Bây giờ cúng ta có thể phân tích những ảnh hưởng về
mặt phúc lợi của thuế quan. Khi giá cả trong nước gia tăng trong
đất nước A (đất nước đưa ra thuế quan), sẽ có một sự
mất mát trong thặng dư tiêu dùng và một sự gia tăng trong thặng
dư sản xuất, cũng như một sự gia tăng trong thu nhập của chính
phủ và một sự mất mát về mặt hiệu quả do sự sụt giảm
số lượng hàng quá thương mại (tam giác a và b trong đồ thị
10). Lượng mất mát hiệu quả này sẽ ít hơn nếu giá cả trong nước
của đất nước A gia tăng bằng một lượng thuế quan như đã
xảy ra trong trường hợp của một đất nước nhỏ. Chú ý rằng,
thu nhập từ thuế quan bây giờ không phải chỉ là vùng của mà
bao gồm vùng c - được chi bởi những người tiêu dùng trong nước
thông qua việc giá cả trong nước cao hơn - cộng với vùng fhij -
được chi bởi những nhà sản xuất trong nước xuất khẩu do
việc nhận giá cả thấp hơn. Thêm vào đó, ảnh hưởng thực
của thuế quan trên phúc lợi của đất nước A phụ thuộc vào
qui mô tương đối của tam giác a+b và tứ giác fhij. Nếu như sự
mất mát (a+b) lớn hơn cái đạt được (fhij), thì đất nước A
sẽ bị thiệt từ thuế quan và ngược lại. Ðiều này có khả năng
xảy ra nhiều hơn khi cung và cầu trong nước co giãn mạnh ở đất
A (nước nhập khẩu), và cung và cầu trong nước ít co giãn hơn
trong nước xuất khẩu. Giống vậy, một đất nước lớn sẽ ít
có khả năng hơn để dịch chuyển chi phí của thuế quan đối
với nước xuất khẩu khi cung và cầu trong nước trở nên ít co
giãn hơn, cũng như cung và cầu trong nước xuất khẩu trở nên co
giãn hơn.
Cuối cùng, những ảnh hưởng phúc lợi giống vậy có thể
được chỉ ra trong đồ thị 9 về lượng cầu nhập khẩu và lượng
cung xuất khẩu. Vùng (a+b) trong đồ thị 10 đứng về mặt khái
niệm bằng với diện tích của tam giác GEE trong đồ thị 9(a)
hoặc 9(b) bởi vì cạnh đáy của tam giác GEE (Qm0 -Qm1) bằng với
tổng các cạnh đáy của tam giác (a+b) trong đồ thị 10; có nghĩa
là sự thay đổi trong lượng hàng hóa nhập khẩu bằng với tổng
lượng giảm của tiêu dùng trong nước (cạnh đáy của tam giác b)
và sự gia tăng sản xuất trong nước (cạnh đáy của tam giác a).
Chiều cao của tam giác GEE trong đồ thị 9, (Pm1-Pm0), là chiều cao
của mỗi tam giác a và b trong đồ thị 10. Hơn thế nữa, một
phần thu nhập thuế quan được chi bởi những người tiêu dùng
trong nước chủ nhà (diện tích của trong đồ thị 10) bằng với
diện tích của tứ giác Pm0Pm1EG trong đồ thị 9, trong khi một
phần thuế quan được chi bởi nước xuất khẩu (vùng fhij trong đồ
thị 10) bằng với vùng Pm2Pm0GF trong đồ thị 9. Do vậy, ảnh hưởng
phúc lợi thực trong đồ thị 9 đối với đất nước A là âm
nếu như nếu như tam giác GEE lớn hơn tứ giác Pm2Pm0GF và ngược
lại.
3.
Ảnh hưởng của hạn ngạch nhập khẩu |
Ðồ thị 11 dưới đây sẽ chỉ ra việc đưa ra hạn ngạch
nhập khẩu thông qua đường cung và đường cầu hàng hóa nhập
khẩu. Ðường Dm biểu hiện cho lượng cầu hàng hóa nhập khẩu
như trước đây và đường cung hàng hóa nhập khẩu dưới điều
kiện thương mại tự do là đường RSm. Trong điểm cân bằng thương
mại tự do, lượng Qm0 được nhập khẩu tại mức giá Pm0. Dưới
áp lực của những nhà sản xuất hàng hóa cạnh tranh nhập khẩu
trong nước, bây giờ chính phủ quyết định chỉ nhập có một lượng
Qm1. Ảnh hưởng của hạn ngạch lúc này là một đường thẳng đứng
được tạo ra (đường Qm1FSm). Ðường cung hàng hóa nhập khẩu do
vậy sẽ là đường RFSm, là đường cung hàng hóa nhập khẩu thông
thường từ R đến F (với điểm F xuất hiện tại lượng hạn
ngạch Qm1) nối với đường thẳng đứng chỉ ra rằng không có hàng
hóa nhập khẩu nào được nhập vào sau lượng Qm1. Vị trí cân
bằng thị trường với hạn ngạch đưa ra bây giờ là điểm E
tại mức giá cân bằng Pm1. Do vậy, giống với thuế quan nhập
khẩu, giá cả hàng hóa trong nước sẽ tăng lên và lượng cung
sẽ giảm xuống so với lượng tại điểm cân bằng dưới tình
trạng thương mại tự do. Người tiêu dùng trong nước phải chi
một giá cả cao hơn so với trong tình trạng thương mại tự do -
sự gia tăng trong giá cả được biểu hiện bởi khoảng cách (Pm1
- Pm0) - và nhà cung cấp nước ngoài sẽ nhận lấy một giá cả
thấp hơn so với trong tình trạng thương mại tự do bằng với
khoảng cách (Pm0 - Pm2).
Ðồ thị 11: Ảnh hưởng của hạn ngạch nhập khẩu
Vị
trí cân bằng thương mại tự do tại điểm E, là giao điểm của
đường Dm và RSm. Nếu một hạn ngạch nhập khẩu là Qm1, thì đường
cung nhập khẩu sẽ là đường RFSm và lượng hàng hóa nhập khẩu
sẽ giảm xuống thấp hơn lượng Qm0. Giá cả đối với những người
tiêu dùng trong nước nhập khẩu sẽ tăng lên từ Pm0 đến Pm1
bởi sự khan hiếm giả tạo, trong khi giá cả thị trường thế
giới giảm xuống tới mức Pm2, vùng Pm1Pm2FE biểu hiện lợi ích
từ hạn ngạch.
Ở đầu chương này chúng ta đã chỉ ra rằng, một sự khác
biệt quan trọng giữa thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu là hạn
ngạch nhập khẩu không nhất thiết có bất kỳ thu nhập nào đổ
dồn cho chính phủ. Bởi vì có sự khác biệt về giá cả giữa cái
mà người tiêu dùng phải chi và cái mà nhà sản xuất nhận được
trên mỗi đơn vị hàng hóa nhập vào, nên tứ giác Pm2Pm1EF (thu
nhập từ hạn ngạch) có thể là của một ai đó. Bởi vì chính
phủ phải kiểm soát lượng hàng hóa nhập khẩu nên chính phủ
sẽ phát hành giấy phép nhập khẩu cho doanh nghiệp. Chính phủ có
thể có được thu nhập từ việc bán giấy phép này. Nếu chính
phủ quyết định không thực hiện việc bán giấy phép này thì
những tác nhân khác sẽ là người hưởng lợi. Nếu như những
giấy phép nhập khẩu này được phân phối dựa trên cơ sở để
tăng cường việc quản lý hàng nhập khẩu hoặc dựa trên thị
phần của doanh nghiệp trên thị trường, thì những doanh nghiệp
sẽ là người nhận lấy thu nhập thêm vào từ hạn ngạch. Cũng có
thể những nhân viên của chính phủ là người hưởng lợi từ
việc hối lộ. Những nhà kinh tế phê phán chính sách này không có
tác dụng làm tăng hiệu quả của việc phân phối nguồn lực. Thêm
vào đó, việc phân phối hạn ngạch dựa trên thị phần sẽ làm
phân biệt đối xử công bằng với những doanh nghiệp mới. Một
khả năng khác là, nếu như những doanh nghiệp xuất khẩu nước
ngoài tương đối ít và có khả năng gia tăng nỗ lực của họ trước
chính sách hạn ngạch này thì chúng có khả năng sử dụng quyền
lực độc quyền của họ để tạo ra giá Pm1 khi họ bán hàng thay
vì là giá Pm2. Trong trường hợp này, lúc này toàn bộ nguồn lợi
sẽ thuộc về những người cung cấp nước ngoài này.
Như vậy ảnh hưởng phúc lợi của hạn ngạch nhập khẩu là
gì? Trong đồ thị 11 (và trong đồ thị 10), tam giác GEE là tổng
sự mất mát hiệu quả do lượng hàng trao đổi giảm liên quan đến
việc tiêu dùng trong nước giảm và việc gia tăng tính không hiệu
quả của sản xuất trong nước. Tuy nhiên, nếu chính phủ thu được
thu nhập hạn ngạch bởi vùng Pm2Pm1EF thông qua việc bán giấy phép
nhập khẩu, hoặc nếu như những doanh nghiệp nhập khẩu trong nước
đạt được khoản thu nhập đó khi chính phủ không bán giấy phép,
lúc đó vùng Pm2Pm0GF sẽ là phần thu nhập được chuyển đổi cho
nước nhập khẩu từ những nhà xuất khẩu nước ngoài. Nếu vùng
này lớn hơn (nhỏ hơn) GEE, thì nước nhập khẩu sẽ đạt được
(bị thiệt) từ hạn ngạch nhập khẩu. (Nhơ rằng, chúng ta giả
định rằng những nước thành viên tham gia thương mại không có
trả đũa.) Nhưng nếu như toàn bộ vùng thu nhập hạn ngạch,
Pm2Pm1EF thuộc về những nhà cung cấp nước ngoài, những người
gia tăng giá cả hàng hóa, thì nước xuất khẩu sẽ là nước hưởng
toàn bộ nguồn lợi. Ảnh hưởng phúc lợi thực của hạn ngạch
nhập khẩu lúc đó sẽ trở nên kém hiệu quả hơn thuế quan cho nước
nhập khẩu. Ảnh hưởng phúc lợi thực của thuế quan bằng vùng
Pm2Pm0GF trừ cho vùng GEE. Ngược lại, ảnh hưởng phúc lợi thực
của hạn ngạch nếu như nước ngoài đạt được thu nhập hạn
ngạch sẽ là tổng của hai vùng trên.
4.
Ảnh hưởng của hạn chế xuất khẩu song phương |
Hạn chế xuất khẩu song phương (VER) được chỉ ra giống
như hạn ngạch nhập khẩu trong đồ thị 11 khi đồ thị đó không
chỉ ra nguồn gốc của sự hạn chế. Ảnh hưởng của giá cả
trong nước và lượng nhập khẩu là như nhau. Tuy nhiên, sự khác
biệt quan trọng là vùng thể hiện thu nhập hạn ngạch bây giờ
chắc chắn thuộc về nhà cung cấp nước ngoài. Với lượng hàng
nhập khẩu hạn chế và với sự kiểm soát của nước xuất
khẩu, thì đất nước đó có thể tăng giá cả đến mức Pm1.
Ảnh hưởng phúc lợi cho nước chủ nhà từ VER do vậy là khoảng
bị thiệt bằng với khoảng bị thiệt của hạn ngạch nhập
khẩu khi nhà xuất khẩu nước ngoài nắm giữ thu nhập hạn
ngạch. Trong tất cả những tình trạng khác, sự mất mát cho nước
nhập khẩu từ VER đều lớn hơn so với sự mất mát từ hạn
ngạch nhập khẩu.
5.
Ảnh hưởng của thuế xuất khẩu |
Thuế xuất khẩu có thể được phân tích theo kiểu tương
đồng với thuế nhập khẩu. Thuế này có thể được tính dựa
trên số lượng hoặc giá trị hàng hóa nhập, nhưng nguyên tắc cơ
bản là như nhau. Ðồ thị 12 chỉ ra ảnh hưởng của việc đưa
ra thuế xuất khẩu dựa trên giá trị hàng hóa. Ðường cung hàng
hóa xuất khẩu Sx có độ dốc đi lên và đường cầu hàng hóa
xuất khẩu, Ðượcx, có độ dốc đi xuống tương ứng với đường
cầu hàng hóa nhập khẩu của đối tác thương mại. Trước khi
đưa ra loại thuế này thì điểm cân bằng thị trường ở tại
điểm E với mức giá là Px0 và lượng Qx0. Khi thuế này được áp
dụng, thì đường cung hàng hóa xuất khẩu sẽ dịch chuyển ra xa
Sx tại những mức giá cao hơn. Với loại thuế này, thì giá cả
xuất khẩu trên thị trường thế giới sẽ là Px1 và lượng được
bán là Qx1 tại điểm cân bằng mới E. Ðất nước lớn có khả năng
nân giá cả thế giới tới một mức độ nào đó bởi lượng
cung giảm. Tuy nhiên, giá cả mà những nhà sản xuất trong nước
nhận được sau khi đóng thuế sẽ giảm xuống tới Px2 bởi vì
với lượng hàng hóa ít hơn được bán ra nước ngoài và có
nhiều hàng hóa hơn được bán trong nước sẽ làm cho giá cả
trong nước giảm xuống. Chính phủ sẽ có được khoảng thu nhập
từ thuế là vùng Px2Px1EF. Một phần của thu nhập này đứng về
mặt kinh tế được chi bởi những người mua nước ngoài
(Px0Px1EG), và phần còn lại được chi bởi những nhà sản xuất
trong nước (Px2Px0GF) mặc dù nhận được thu nhập thấp hơn.
Thuế xuất khẩu làm tổn thương đến những nhà sản xuất trong
nước, nhưng những người tiêu dùng trong nước thì có lợi do giá
cả trong nước giảm. Ðiều này trái ngược với thuế quan nhập
khẩu - những nhà sản xuất có lợi hơn và những người tiêu dùng
trong nước bị thiệt do giá cả trong nước tăng. Mức độ mà
tại đó thuế xuất khẩu được chi bởi những người mua nước
ngoài liên quan đến những nhà sản xuất trong nước phụ thuộc vào
độ dốc của đường cung và đường cầu.
Vị
trí cân bằng thương mại tự do tại điểm E, giao điểm của đường
cung xuất khẩu (Sx) và đường cầu hàng hóa xuất khẩu (Dx). Với
thuế xuất khẩu tính theo giá trị hàng hóa, đường Sx sẽ dịch
chuyển thẳng đứng đến đường Sx. Ðường Sx dịch chuyển ra xa
đường Sx tại những mức giá và những lượng hàng xuất khẩu
cao hơn, bởi vì tại mỗi mức hàng hóa xuất khẩu thì giá cả trên
đường Sx tăng lên một phần trăm nào đó. Khi thuế này được
áp dụng, thì những người mua nước ngoài phải chi với giá cao hơn,
Px1 trên mỗi đơn vị xuất khẩu so với tại mức giá Px0 trong điều
kiện thương mại tự do (Px0), và những nhà cung cấp
hàng xuất khẩu trong nước nhận được mức giá thấp hơn
(Px2) trên mỗi đơn vị thay vì là Px0. Lượng xuất khẩu giảm
xuống từ Qx0 đến Qx1. Thu nhập thuế xuất khẩu là vùng Px1Px2FE.
Bởi vì xuất khẩu được xem là tốt cho đất nước do nó
làm cải tiếnợcccc cán cân thương mại, cung cấp thêm việc làm,
v.v...nhưng tại sao đất nước này lại đưa ra thuế xuất khẩu?
Chúng ta có thể chỉ ra một cách tóm tắt một vài lý do, chú ý là
thuế xuất khẩu được áp dụng phổ biến trong những quốc gia
đang phát triển. Một lý do rất quan trọng cho việc sử dụng
thuế xuất khẩu bởi những nước đang phát triển là nhằm để
tạo ra thu nhập cho chính phủ, do rất khó khăn để tạo ra thu
nhập chính phủ thông qua thuế thu nhập hay thuế tài sản. Một lý
do khác cho việc đưa ra thuế xuất khẩu là để chống lại áp
lực lạm phát trong nước. (Tuy nhiên bản thân của thuế xuất
khẩu không thể là công cụ hữu hiệu để chống lạm pháp,
ngoại trừ nó được ứng dụng chung cho nền kinh tế vĩ mô.) Hơn
thế nữa, thuế xuất khẩu có thể được sử dụng để tái phân
phối thu nhập trong nước. Nếu như hàng hóa được xuất khẩu là
hàng hóa nông nghiệp được canh tác bởi những chủ đất lớn và
giàu có và được tiêu dùng bởi những cư dân thành phố có thu
nhập thấp, lúc đó việc giảm giá cả trong nước bằng thuế
xuất khẩu có thể làm thay đổi sự phân phối thu nhập hướng
tới sự công bằng lớn hơn.
Một lý do rất quan trọng cho việc sử dụng thuế xuất
khẩu là, đối với một đất nước lớn thì tỷ số thương
mại có thể được cải tiến. Trong đồ thị 12, giá cả xuất
khẩu gia tăng từ Px0 đến Px1. Nếu giá cả nhập khẩu không thay
đổi, lúc đó tỷ số thương mại (Pxuất khẩu/Pnhập khẩu) sẽ
gia tăng bởi ảnh hưởng của thuế xuất khẩu. Do việc cải
thiện tỷ số thương mại nên ảnh hưởng phúc lợi cho đất nước
có thể là dương. Trong đồ thị 12, tam giác FGE là sự mất mát
hiệu quả do giảm lượng hàng hóa trao đổi đi cùng với thuế
xuất khẩu. Ðứng về mặt khái niệm, nó tương ứng với những
tam giác CJH và GEF trong đồ thị 5, mặc dù đồ thị 5 biểu hiện
cho một đất nước nhỏ. Nó tương ứng bởi vì cạnh đáy của
hai tam giác trong đồ thị 5 là sự sụt giảm trong hàng hóa xuất
khẩu bằng với lượng (Qx0 - Qx1) trong đồ thị 12, và sự sụt
giảm giá cả là như cũ, giá trước thuế trừ cho giá sau thuế
(giá trong nước) bằng với khoảng (Px0 - Px2), tứ giác Px0Px1EG là
phần đền bù từ thuế xuất khẩu cho sự mất mát hiệu quả do
giảm lượng hàng hóa trao đổi, đây là khoảng chuyển giao phúc
lợi của chính phủ có được từ việc thu của người mua nước
ngoài. Ðất nước lớn sẽ đạt được (bị thiệt) từ thuế
xuất khẩu nếu như vùng Px0Px1EG lớn hơn (nhỏ hơn) vùng FGE.
6.
Ảnh hưởng của trợ cấp xuất khẩu |
Trợ cấp xuất khẩu là một thuế xuất khẩu âm, phân tích
hai công cụ này giống nhau về mặt phương
pháp. Trong đồ thị 13, điểm cân bằng trong thị trường xuất
khẩu ban đầu tại điểm E, với giá cả là Px0 và lượng được
xuất khẩu là Qx0. Khi chính phủ của nước chủ nhà đưa ra trợ
cấp xuất khẩu, thì đường Sx sẽ dịch chuyển thẳng đứng theo
hướng đi xuống (tăng trong cung) đến Sx, đường này song song
với Sx. Giá cả mới mà tại đó người xuất khẩu có thể bán
sản phẩm là Px2, và điểm cân bằng mới là tại điểm E ứng
với lượng Qx1. Bởi vì bây giờ có một động lực tương đối
lớn hơn cho nhà sản xuất hàng hóa xuất khẩu, nên lượng hàng hóa
được bán ở thị trường trong nước giảm xuống sẽ làm cho giá
cả trong nước tăng lên đến Px1. (Với giá Px1 ở thị trường
trong nước, doanh nghiệp sẽ nhận cùng một số tiền trên mỗi
đơn vị được bán trên mỗi thị trường, bởi vì giá cả trong
nước Px1 bằng với giá cả xuất khẩu Px2 cộng với khoảng trợ
cấp trên mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu.) Do vậy, người tiêu
dùng trong nước bị tổn hại khi nhà sản xuất trong nước nhận
được khoảng trợ cấp này.
Một thiệt thòi khác cho người tiêu dùng trong nước là
việc trợ cấp xuất khẩu (không giống với thuế xuất khẩu
hoặc thuế quan nhập khẩu) sẽ không mang lại thu nhập cho chính
phủ, mà ngược lại chính phủ là người phải chi tiêu cho việc
này. Lượng trợ cấp được đòi hỏi cho lượng xuất khẩu Qx1 là
vùng Px2Px1FE, đây là lượng trợ cấp trên mỗi đơn vị hàng hóa
được xuất khẩu [khoảng cách EF = khoảng cách (Px1-Px2)] nhân cho
số đơn vị hàng hóa xuất khẩu (OQx1). Ðể bù đắp cho khảong
chi tiêu này, chính phủ có thể phải đánh thuế lên người dân
bằng với khoảng chi tiêu này, hoặc chính phủ sẽ phải gia tăng
mức lãi suất v.v...
Cuối cùng, đề cập đến phúc lợi trong một đất nước
lớn đối với trợ cấp xuất khẩu, tam giác EFG biểu hiện cho
sự mất mát hiệu quả do giảm lượng hàng hóa trao đổi. Ðứng
về mặt khái niệm, diện tích này bằng với diện tích ECJ và HFG
trong đồ thị 6, mặc dù đồ thị đó biểu hiện cho một đất nước
nhỏ. Trong đồ thị đó, tổng cạnh đáy của hai tam giàcla lượng
hàng hóa xuất khẩu được gia tăng do trợ cấp xuất khẩu, bằng
với khoảng EG hoặc (Qx1-Qx0) trong đồ thị 13. Giống vậy, chiều
cao của những tam giác ECJ và HFG trong đồ thị 6 chỉ ra sự khác
biệt của giá cả thị trường trong nước có trợ cấp xuất
khẩu và giá cả thị trường trong nước dưới điều kiện thương
mại tự do, bằng với khoảng FG hoặc (Px1-Px0) trong đồ thị 13,
đất nước cũng phải chịu sự mất mát bằng với vùng Px2Px0GE,
là lượng giảm giá cả cho người mua nước ngoài (bởi có trợ
cấp xuất khẩu) nhân cho lượng hàng hóa xuất khẩu. Do vậy,
trợ cấp xuất khẩu gây ra một sự mất mát thêm trong trường
hợp nước lớn đối với khoảng mất mát hiệu quả do giảm lượng
hàng hóa trao đổi, trong khi đó trong tất cả các công cụ được
sử dụng trước đây đối với nước lớn đều có một khoảng
bù đắp phúc lợi cho sự mất mát này.
Vị
trí cân bằng thương mại tự do tại điểm E, với một trợ cấp
xuất khẩu, thì đường cung hàng hóa xuất khẩu sẽ dịch chuyển
song song đến Sx bởi một khoảng bằng với lượng trưọ cấp trên
mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu. Bởi vì nhà sản xuất bây
giờ có thể bán hàng hóa với giá cả thấp hơn, Px2, trên thị trường
thế giới. Lượng hàng hóa được xuất khẩu tăng lên từ Qx0 đến
Qx1. Giá cả hàng hóa trong nước giảm xuống từ Px0 đến Px1 bởi
lượng cung trong nước giảm. Vùng Px1Px2EF là khoảng chi tiêu của
nhà nước cho công cụ này.