CHƯƠNG 3:
NHỮNG TRANH LUẬN CỔ ĐIỂN VỀ VIỆC BẢO HỘ MẬU DỊCH
Trong chương này, chúng ta
sẽ thảo luận một vài tranh luận về việc bảo hộ mậu dịch
trong nhiều thập kỷ qua và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng đến
những nhà hoạch định chính sách. Những tranh luận này có thể
được phân biệt bởi tên gọi khác nhau, đó là Chủ nghĩa bảo
dịc mới, hoặc chính sách thương mại chiến lược.
Trước tiên chúng ta
sẽ trình bày lý do tại sao bảo hộ mậu dịch nên được đặt
ra, kế đó chúng ta sẽ đánh giá giá trị của nó. Bước thứ
nhất, chúng ta sẽ đặt ra câu hỏi là một công cụ chính sách nào
đó có thể làm cho một việc làm nào đó có tốt hơn không từ
việc tạo ra mục tiêu của chính sách thương mại hạn chế. Vấn
đề được đặt ra ở đây là: với mục tiêu đưa ra thì nguồn
lợi và chi phí của chính sách được đưa ra sẽ như thế nào so
với chính sách lựa chọn khác.
Sau cùng, luôn luôn nên nghĩ là mục tiêu của một chính sách
là tiêu chí quan trọng. Một số tranh luận có thể được đề
nghị từ mục tiêu chung của quốc gia, có nghĩa là quốc gia sẽ
kỳ vọng vào những nguồn lợi đạt được từ một chính sách nào
đó. Những tranh luận khác có thề được đưa ra từ mục tiêu
của một ngành đơn lẻ nào đó, có nghĩa là nguồn lợi được
mang lại từ một chính sách nào đó chỉ đem lại lợi ích cho
một ngành nào đó thôi, không quan tâm đến phúc lợi chung của
quốc gia.
I/ TRANH LUẬN VỀ BẢO HỘ MẬU DỊCH CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP NON TRẺ |
Nói chung những nhà kinh tế đồng ý rằng tranh luận cho
việc bảo hộ mậu dịch có giá trị từ quan điểm tạo ra phúc
lợi cho toàn thế giới. Tranh luận của ngành công
nghiệp non trẻ dựa trên sự tồn tại của kinh tế qui mô trong
một ngành hoặc một xí nghiệp. Giả sử rằng, sự tăng trưởng
của một ngành mới trong một quốc gia bị cản trở bởi những hàng
hóa nhập khẩu có chi phí thấp. Sản xuất ngành này ở nước ngoài
có thể gặp phải rủi ro và ngành sản xuất này trong nước chủ
nhà sẽ có được một sự khởi xưởng trễ. Nếu bảo hộ mậu
dịch có thể tạm thời được đưa ra cho ngành này trong nước
chủ nhà, thì tranh luận có thể đưa ra là những xí nghiệp trong
ngành này sẽ có khả năng nhận ra được kinh tế qui mô hiệu
quả. Những kinh tế qui mô trong nước này sẽ xuất hiện bởi vì
những xí nghiệp bây giờ sẽ sản xuất một lượng lớn sản
phẩm, có nghĩa là những nhà sản xuất trong nước chủ nhà sẽ
dịch chuyển theo hướng đi xuống trên đường chi phí bình quân
trong dài hạn. Cuối cùng, chi phí trên mỗi đơn vị sẽ giảm
xuống đến mức độ là ngành sản xuất trong nước trở thành nhà
xuất khẩu. Tại thời điểm này, việc bảo hộ có thể được
tháo gỡ bởi vì nó không còn cần thiết nữa. (Một đặc điểm
khác là ngành sản xuất này cũng có thể tạo ra kinh tế ngoại biên
bởi vì thí dụ việc mở rộng sản xuất của nó sẽ dẫn đến
việc huấn luyện cho lao động đạt được năng suất cao hơn. Ðiều
này sẽ có lợi cho cả nước chủ nhà và thế giới. Ngành này
của nước chủ nhà có một lợi thế so sánh trong dài hạn, nhưng
không thể nhận ra trong ngắn hạn nếu việc bảo hộ tạm thời
được đưa ra. Những người tiêu dùng của nước chủ nhà sẽ
được yêu cầu tài trợ cho việc mở rộng ngành trong dài hạn,
nhưng họ sẽ được trả lại nhiều hơn khi kinh tế qui mô được
nhận ra.
Trong thực tế, tranh luận của ngành công nghiệp non trẻ
được đưa ra thường hơn ở các nước đang phát triển. Những nước
đang phát triển thường đề xuất sự tranh luận trong ngữ cảnh
của một chương trình thay thế nhập khẩu.Tranh luận của ngành công
nghiệp non trẻ là một biến dạng của kiểu tranh luận cổ điển,
nhưng nó được đánh giá giống nhau.
Mặc dầu những nhà kinh tế nói chung đồng ý rằng những
tranh luận này có ý nghĩa về mặt lý thuyết, nhưng không phải ngành
non trẻ nào cũng nên được bảo vệ. Khóa khăn ở đây là việc
nhận ra ngành nào sẽ có khả năng trở tạo ra những sản phẩm có
chi phí thấp. Nếu như ngành được bảo hộ không có khả năng trên,
thì nước chủ nhà cũng như thế giới có thể sẽ phải gánh
nặng hơn và làm cho việc sử dụng nguồn lực trở nên kém hiệu
quả hơn.
Bên cạnh việc xác định đúng ngành non trẻ cần được
bảo hộ, những nhà kinh tế cũng nên tự hỏi là hình thức thuế
quan hay hình thức khác có phải là chính sách có liên quan hay không,
thậm chí ngành này đã được xác định là ngành non trẻ thực
sự. Thí dụ như trường hợp có thể xảy ra là một trợ cấp
cho ngành được bảo hộ bởi chính phủ của nước chủ nhà là
ưu tiên việc sử dụng thuế quan. Trong khi đó, một trợ cấp sẽ
có một chi phí phúc lợi thấp hơn so với một thuế quan. Việc
trợ cấp cũng sẽ được đánh giá lại mỗi năm khi chính phủ ra
lệnh chi tiêu, do vậy nguồn lợi và chi phí sẽ được phân tích
thường xuyên hơn so với việc đưa ra một chính sách thuế quan.
Tuy nhiên, cơ bản hơn là những nhà kinh tế sẽ đặt ra
vấn đề là tại sao một ngành công nghiệp trong một quốc gia
lại không có khả năng tự chủ hoạt động được và tại sao nó
lại cần sự bảo hộ của chính phủ. Nếu như kinh tế qui mô
trong nước có thể được nhận ra từ việc mở rộng sản xuất,
thì những nhà sản xuất trong nền kinh tế thị trường sẽ biết
được điều này và tự họ sẽ thực hiện việc mở rộng. Họ
có thể vay tiền từ các tổ chức tài chánh, đầu tư việc mở
rộng cơ xưởng và sẽ sử dụng lợi nhuận đạt được để
trả món tiền vay. Nếu quá trình này không thể thực hiện được
bởi chính ngành, thì thị trường vốn có thể là đang hoạt động
không có hiệu quả trong việc giải ngân. Do vậy, mục tiêu thích
hợp của một chính sách cần xem xét đến việc cải thiện hoạt
động của những thị trường vốn, có lẻ thông qua các luật định
hoặc sự bảo đảm của chính phủ đối với những món vay. Các
tổ chức cho vay thường thích đưa ra những khoản cho vay ngắn
hạn hơn là dài hạn trong những nước đang phát triển, bởi nguyên
nhân quan trọng là khả năng thanh toán của các nước đang phát
triển đối với các khoản vay dài hạn.
II.
TRANH LUẬN VỀ TỶ SỐ THƯƠNG MẠI TRONG BẢO HỘ MẬU DỊCH |
Tranh luận về tỷ số thương mại trong bảo hộ mậu dịch cho rằng phúc lợi của quốc gia có thể được tạo ra thông qua một công cụ chính sách thương mại hạn chế. Tranh luận này thừa nhận rằng, phúc lợi của thế giới sẽ sụt giảm khi bảo hộ mậu dịch xảy ra, bởi vì những nguồn lợi đạt được của nước bảo hộ sẽ lớn hơn những mất mát phúc lợi ở các nước khác. Nói cách khác, chính sách bảo hộ mậu dịch là chính sách làm nghèo hàng xóm
Tranh luận này cho rằng, chính sách thương mại hạn chế có
thể làm gia tăng tỷ số
Phàng xuất khẩu / Phàng
nhập khẩù (PX/PM) do vậy làm
gia tăng phúc lợi của quốc gia bảo hộ. Ðứng về mặt kinh tế,
việc sử dụng một thuế quan của nước chủ nhà sẽ làm giảm
nhu cầu hàng nước ngoài trên thị trường thế giới. Cuối cùng,
giá cả thế giới của hàng nhập khẩu sẽ giảm xuống và PX/PM
sẽ gia tăng. Việc sử dụng thuế quan có tiềm năng làm gia tăng
phúc lợi quốc gia, mặc dù phúc lợi các nước ngoài sẽ giảm
xuống khi tỷ số thương mại hàng hóa của nước ngoài giảm
xuống. Chúng ta nhấn mạnh chỉ có nước lớn mới có thể sử
dụng tranh luận về TOT với bất kỳ sự thành công nào bởi vì
đất nước đưa ra thuế quan cũng có thể làm ảnh hưởng đến
TOT của nó. Trong khi đối với nước nhỏ thì không có khả năng
này.
Tranh luận về tỷ số thương mại có thể được giải thích
bởi đồ thị đường tuyến cung. Trong đồ thị 1, OC1 biểu hiện
cho đường tuyến cung của nước chủ nhà (đất nước I), trong
khi OCII là đường tuyến cung của đất nước đối tác (đất nước
II). Trong thương mại tự do, tỷ số thương mại là TOT1. Nếu đất
nước I đưa ra thuế quan thì đường tuyến cung của nó dịch
chuyển tới OC1 tạo ra điểm cân bằng mới mới E. Trong khi những
hàng hóa xuất khẩu của đất nước I giảm xuống từ Ox1 tới
Ox2 và hàng hóa nhập khẩu sẽ dịch chuyển từ Oy1 tới Oy2. Tỷ
số thương mại đã cải thiện từ TOT1 tới TOT2. Do vậy có tiềm
năng làm gia tăng phúc lợi cho đất nước I bởi vì nó nhập hàng
hóa nhập khẩu nhiều hơn trên mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu
(hay là nó đã từ bỏ ít hàng hóa xuất khẩu hơn trên một đơn
vị hàng hóa nhập khẩu). Ðứng trên quan điểm phúc lợi thì điều
này có nghĩa là đất nước I có tiềm năng tốt hơn.
Ðiểm
cân bằng thương mại tự do ban đầu ở tại điểm E, giao điểm
của đường tuyến cung OCI của đất nước I và đường tuyến
cung OCII của đất nước II. Việc đưa ra thuế quan của đất nước
I làm dịch chuyển đường tuyến cung từ OCI đến OCI, bây giờ thì
đất nước I sẽ ít sẵn lòng thương mại hơn tại tỷ số thương
mại trước đó, TOT1. Thuế quan này sẽ dẫn đến điểm cân
bằng mới E. Hàng xuất khẩu X của đất nước I giảm xuống từ
Ox1 đến Ox2 và lượng hàng hóa Y nhập khẩu giảm xuống từ Oy1
đến Oy2. Tuy nhiên, tỷ số thương mại của đất nước I được
cải thiện từ TOT1 đến TOT2 và mỗi đơn vị hàng hóa xuất
khẩu của đất nước I bây giờ sẽ kiềm chế một lượng hàng
hóa nhập khẩu lớn hơn.
Tuy nhiên, bàn luận về tỷ số thương mại vẫn chưa đầy
đủ. Ðiều chưa được xét đến trong ý nghĩa phúc lợi là lượng
hàng hóa nhập khẩu đã giảm xuống do thuế quan được đặt ra.
Lượng hàng nhập khẩu giảm này với những cái khác không đổi
sẽ làm giảm mức phúc lợi của đất nước I do hị không thể
tiêu dùng được những hành hóa nhập khẩu với giá thấp nữa. Tóm
lại, đất nước I đạt được nguồn lợi do tiêu dùng hàng hóa
nhập khẩu với giá cả thế giới thấp hơn, nhưng bị mất mát
do mất đi một lượng hàng hóa nhập khẩu đó nhỏ hơn.. Việc
xem xét thêm vào của lượng hàng hóa mất đi này trong phân tích
thông qua khái niệm tỷ lệ thuế quan tối ưu. Tỷ lệ
thuế quan tối ưu là tỷ lệ làm tối đa hóa phúc lợi của quốc
gia. Ðứng về mặt khái niệm, tại tỷ lệ này chênh lệch
mang số dương giữa nguồn lợi đạt được từ giá cả tốt hơn
và sự mất mát từ lượng nhập khẩu giảm xuống đạt tối đa.
Nếu tỷ lệ thuế quan cao hơn tỷ lệ tối ưu này thì mức phúc
lợi đạt được thấp hơn mức tối đa, bởi vì nguồn lợi đạt
được thêm vào từ tỷ số thương mại tốt hơn cao hơn sự mất
mát thêm vào do lượng nhập khẩu giảm xuống. Giống vậy, tại
tỷ lệ thuế quan thấp hơn tỷ lệ tối ưu thì nguồn lợi đạt
được từ tỷ số thương mại được cải thiện cao hơn sự
mất mát thêm vào do giảm lượng hàng nhập khẩu.
Cái gì đặc tính hóa tỷ lệ thuế quan tối ưu của một
quốc gia? Trước hết, tỷ lệ thuế quan tối ưu đối với đất
nước I dính líu đến giao điểm của đường tuyến cung của đất
nước I với đường tuyến cung của đất nước II nằm trong
phần co giãn của đường tuyến cung của đất nước II. Nếu đường
tuyến cung của đất nước I với tỷ lệ thuế quan giao với
phần không co giãn nằm trong phần không co giãn của đường
tuyến cung của nước đối tác, thì tỷ lệ thuế quan có thể không
tối ưu đối với đất nước I bởi vì thậm chí với một thuế
quan cao hơn sẽ cải tiến tỷ số thương mại của đất nước I
và làm gia tăng lượng hàng nhập khẩu của đất nước I. (Chú ý
là phần không co giãn của đường tuyến cung của đất nước II
có độ dốc đi xuống) Nếu đường tuyến cung của đất nước I
với một mức thuế quan giao với phẩn nằm trong vùng co giãn đơn
vị của đường tuyến cung của đất nước II thì tỷ lệ thuế
quan cũng có thể là không tối ưu bởi vì thậm chí với một
mức thuế quan cao hơn sẽ làm cải tiến tỷ số thương mại của
đất nước I và vẫn tạo ra cùng một lượng hàng hóa nhập
khẩu của đất nước I. (Chú ý rằng, phần co giãn đơn vị của
đường tuyến cung của quốc gia II là đường thẳng nằm ngang).
Công thức đơn giản biểu hiện mối quan hệ giữa tỷ lệ
thuế quan tối ưu và độ co giãn của đường tuyến cung của đất
nước đối tác như sau:
Trong đó, tI* là tỷ lệ thuế quan tối ưu và eII là độ co
giãn cầu nhập khẩu (được định nghĩa như là con số dương, có
nghĩa là quên đi dấu âm) trên đường tuyến cung của đất nước
II. Rõ ràng, tỷ lệ thuế quan tối ưu có quan hệ nghịch đảo
với độ co giãn cầu của nước đối tác. Nếu độ co giãn này
có giá trị là 3, lúc đó tỷ lệ thuế quan tối ưu sẽ là
[1/(3-1) =1/2=50%]. Nhưng nếu độ co giãn này bằng 5 thì lúc đó
tỷ lệ thuế quan tối ưu sẽ bằng 25%. Mối quan hệ nghịch đảo
phản ảnh thực tế là một sự dịch chuyển của của đường
tuyến cung của nước chủ nhà do thuế quan mang lại sẽ có ảnh hưởng
nhỏ đến tỷ số thương mại nếu như những người nước ngoài
có nhu cầu rất co giãn đối với hàng hóa của chúng ta. Nếu chúng
ta cố gắng để nhập khẩu
ít hơn hàng hóa của nước đối tác bởi việc
bởi việc đưa ra thuế quan trong nước, thì nước đối tác
sẽ phản ứng lại bằng cách trao đổi hàng xuất khẩu của nó
với những hàng hóa xuất khẩu của một số nước khác (hoặc
với những hàng hóa được sản xuất trong nước của nó) hơn là
tham gia thương mại với chúng ta. Dung lượng thương mại do vậy
sẽ giảm xuống một cách đáng kể với một sự thay đổi nhỏ
trong giá cả.. Cũng chú ý rằng, nếu như eII =1 hoặc eII<1, công
thức ở trên trở nên không có ý nghĩa về mặt kinh tế. Nhưng điều
này không thể tồn tại vì tỷ lệ tối ưu không thể xảy ra
với eII =1 hoặc eII<1.
Thảo luận về tỷ số thương mại có giá trị như thế nào?
Các nhà kinh tế đồng ý rằng sự tranh luận một cách lô gic sẽ
dẫn đến kết luận là việc đưa ra thuế quan sẽ làm tăng phúc
lợi của nước đưa ra thuế quan. Nếu mục tiêu của quốc gia
chỉ là làm cải tiến tỷ số thương mại của nó thì không có
một công cụ chính sách trong nước nào, như chính sách trợ cấp
cho ngành cạnh tranh nhập khẩu, tốt hơn so với thuế quan. Tuy nhiên,
thảo luận về tỷ số thương mại là một tranh luận làm nghèo
đi hàng xóm bởi vì phúc lợi của nước tham gia thương mại sẽ
giảm xuống. Bởi vì nước tham gia thương mại sẽ bị thiệt
bởi thuế quan, nên nó có thể trả đũa bằng cách đưa ra thuế
quan của nó. Trong trường hợp đó, phúc lợi đạt được của
cả hai quốc gia đều giảm xuống so với tình trạng thương mại
tự do. Nếu sự trả đũa xảy ra liên tục thì thương mại sẽ co
lại và cả hai quốc gia đều không có được một tỷ số thương
mại tốt hơn.
III.
THUẾ QUAN LÀM GIẢM THẤT NGHIỆP CHUNG |
Thảo luận về vấn đề thuế quan làm giảm thất nghiệp
chung được thể hiện như sau. Giả định rằng một đất nước
có thất nghiệp, việc đưa ra thuế quan sẽ dẫn đến một sự
dịch chuyển trong nhu cầu bởi những người tiêu dùng trong nước
từ việc tiêu dùng hàng hóa nước ngoài đến tiêu dùng hàng hóa
trong nước. Với sự gia tăng này trong nhu cầu, những ngành sản
xuất trong nước sẽ mở rộng qui mô, do đó sẽ thuê thêm nhiều
lao động, làm giảm lượng thất nghiệp trong nước xuống. Ðến
lượt nó, những lao động mới được thuê mướn này gia ăng thêm
thu nhập và tạo ra nhu cầu nhiều hơn với nhiều hàng hóa khác
nhau khiến cho nhiều ngành sản xuất khác trong nước cũng sẽ đồng
thời gia tăng.
Trong việc đánh giá thảo luận này, những nhà kinh tế đưa
ra một số quan điểm tranh luận cho rằng có rất ít việc làm
mới được tạo ra do thuế quan. Nước chủ nhà có thể sẽ đánh
mất đi những việc làm trong những ngành xuất khẩu trước đây
đến mức độ hiệu quả thực của việc tạo thêm việc làm
mới mang số âm. Sự mất mát việc làm trong những ngành xuất
khẩu trong nước có thể xuất hiện với một số lý do sau:
1. Việc làm được mở
rộng trong những ngành thay thế nhập khẩu trong nước chủ nhà -
việc tạo ra việc làm thông qua những hiệu quả theo cấp số nhân
- sẽ xảy ra trong cách thức làm nghèo hàng xóm bởi vì những
việc làm này bị mất đi trong nước đối tác. Khi nước chủ nhà
giảm lượng nhập khẩu của nó bởi thuế quan thì sẽ có một
sự mất mát tương đương của những hàng hóa xuất khẩu và
việc làm của những nước đối tác. Ðể hạn chế sự mất mát
việc làm này, những đất nước đó có thể đưa ra những thuế
quan trả đũa để làm giảm việc làm trong ngành xuất khẩu đối
với nước chủ nhà.
2. Thậm chí khi không có
sự trả đũa nào xảy ra thì những hàng hóa xuất khẩu của nước
chủ nhà có thể giảm xuống bởi vì việc giảm xuống của
những hàng hóa xuất khẩu trong những nước đối tác sẽ làm
giảm thu nhập quốc dân. Ðiều này dẫn đến một sự cắt giảm
chi tiêu trong việc tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu của nước chủ
nhà và làm giảm việc làm trong những ngành xuất khẩu của nước
chủ nhà.
3. Nếu nước chủ nhà có
một tỷ giá hối đoái tự do thay đổi, lúc đó đồng tiền nước
ngoài sẽ giảm giá trị khi nước chủ nhà đưa ra thuế quan và
mua ít hơn hàng hóa nước ngoài. Việc mua ít hơn những hàng hóa nước
ngoài chỉ ra có một sự gia giảm trong nhu cầu đối với ngoại
tệ. Việc đồng tiền nước ngoài bị giảm giá tương ứng với
sự tăng giá đồng tiền trong nước sẽ làm giảm lượng hàng hóa
xuất khẩu trong nước (bởi vì nó phải bỏ ra nhiều ngoại tệ hơn
để mua hàng hóa trong nước) và sẽ làm tăng hàng hóa nhập khẩu
trong nước chủ nhà (những hàng hóa này bây giờ tương đối rẻ
hơn đối với những người tiêu dùng trong nước). Ảnh hưởng
thực của việc giá trị đồng tiền trong nước gia tăng là sẽ làm
giảm việc làm trong những ngành xuất khẩu và những ngành thay
thế nhập khẩu trong nước.
Chúng ta có thể dẫn ra những ảnh hưởng khác đối với
việc đưa ra thuế quan. Những nhà kinh tế cho là không chắc chắn
là thuế quan có thể làm giảm thất nghiệp và họ nhấn mạnh
rằng, nếu mục tiêu là nhằm để gia tăng việc làm, thì tại sao
sử dụng thuế quan trong khi những chính sách khác có thể hoàn thành
mục tiêu này trực tiếp hơn và chắc chắn hơn? Những chính sách
khác- những công cụ vĩ mô về tiền tệ và tài chánh -có thể
được sử dụng rộng rãi để gia tăng việc làm. Việc làm trong
những nước đối tác cũng có thể gia tăng khi nước chủ nhà
sử dụng thu nhập gia tăng của nó để mua nhiều hàng hóa nhập
khẩu hơn và mở rộng sản xuất sang một số quốc gia khác. Do
vậy, phúc lợi của toàn cầu có thể gia tăng thay vì giảm xuống
như khi áp dụng thuế quan. Nếu vấn đề thất nghiệp chung tồn
tại, lúc đó những chính sách hợp lý được sử dụng phải mang
tính chất đặc thù cho việc giải quyết vấn đề được nêu ra.
IV.
THUẾ QUAN LÀM GIA TĂNG VIỆC LÀM TRONG MỘT NGÀNH |
Thuế quan làm gia tăng việc làm trong một ngành dựa trên
quan điểm vi mô của vấn đề việc làm. Tranh luận được đưa
ra ở đây là, nếu việc bảo hộ mậu dịch được ban cho một ngành
nào đó, thì nhu cầu sẽ dịch chuyển từ việc sử dụng hàng
nhập khẩu đến việc sử dụng hàng trong nước bởi vì giá cả
của hàng hóa nhập khẩu sẽ gia tăng tương đối với giá cả
của hàng hóa nội địa. Sự dịch chuyển này sẽ đẩy giá cả
của hàng nội địa lên làm cho những nhà sản xuất trong nước
gia tăng lượng cung lên. Sự gia tăng sản xuất này sẽ dẫn đến
việc thuê mướn thêm lao động trong nước, do vậy làm gia tăng
việc làm trong ngành này. Tuy nhiên, những việc làm mới trong
những ngành được bảo hộ có thể bị bù trừ do phí tổn cao
cho việc làm trong những ngành khác. Do vậy, việc thêm vào việc làm
trong đất nước có thể không xảy ra, nhưng đây không phải là
mục tiêu của thuế quan. Thay vào đó, mục tiêu ở đây chỉ là làm
tăng việc làm trong một ngành cụ thể nào đó thôi và chính sách
này đã được mục tiêu của nó trong thảo luận này.
Những nhà kinh tế không bàn cãi là thuế quan có thể làm
gia tăng việc làm trong một ngành nào đó. Tuy nhiên, vấn đề được
đặt ra cho họ là liệu chính sách thuế quan có phải là phương
pháp tốt nhất để làm tăng việc làm hay không. Nếu mục tiêu làm
tăng việc làm trong một ngành nào đó được chấp nhận - thậm
chí việc làm bị giảm xuống trong những ngành khác- lúc đó
việc trợ cấp sản xuất hoặc việc làm lại là cách tốt nhất
để đạt mục tiêu này. Do vậy, trong khi tranh luận này về việc
bảo hộ có thể là có giá trị về mặt lý thuyết từ quan điểm
của nó, nhưng nó không có nghĩa là việc bảo hộ bằng thuế quan
nên được áp dụng. Một công cụ có thể lựa chọn khác là
trợ cấp của chính phủ cho ngành có thể sẽ đỡ tốn kém nhất
đứng về mặt phúc lợi. Tình huống 1 cho ta thấy điều này.
V.
THUẾ QUAN SẼ BÙ ÐẮP LẠI VIỆC BÁN PHÁ GIÁ CỦA NƯỚC
NGOÀI |
Tranh luận này thường được gọi là tranh luận chống bán
phá giá đối với thuế quan đã được sử dụng rộng rãi ở
Mỹ trong những năm gần đây. Trước hết cần thiết để định
nghĩa từ bán phá giá. Ðối với nhà kinh tế, bán phá giá xảy ra
khi một xí nghiệp bán hàng hóa của nó tại một giá thấp hơn giá
trong thị trường xuất khẩu. Ðịnh nghĩa này không nói gì về bán
hàng hóa dưới chi phí- ý nghĩa của việc bán phá giá. Ở đây,
những nhà kinh tế đơn giản chỉ muốn nói tới hình thức phân
biệt giá cả. Như chúng ta còn nhớ, sự phân biệt xảy ra khi
một xí nghiệp bán cùng một sản phẩm trong những thị trường
khác nhau tại những giá cả khác nhau.
Tranh luận về việc bảo hộ ở đây là việc bán phá giá
bởi những xí nghiệp nước ngoài đối với nước chủ nhà là
một hành vi không công bằng và tạo ra mối đe dọa cho những nhà
sản xuất trong nước bởi giá cả hàng nhập khẩu thấp; do vậy
một thuế quan có thể bù đắp lại việc bán phá giá của những
xí nghiệp nước ngoài. Một định nghĩa khác về bán phá giá là
một tình trạng mà ở đó xí nghiệp nước ngoài bán hàng hóa dưới
chi phí và để chống lại hành vi này, nước chủ nhà đã đưa ra
một loại thuế chống lại việc
bán phá giá.
Chúng ta có thể đánh giá giá trị của tranh luận này cho
việc bảo hộ như thế nào? Trong bất kỳ đánh giá nào, những nhà
kinh tế thường phân biệt 3 loại bán phá giá. Trong việc bán phá
giá dai dẳng, thì hàng hóa liên tục được bán với một giá
thấp hơn so với giá cả trong nước trong nước nhập khẩu. Tình
trạng này là tình trạng mà trong đó hàng hóa đơn giản là hàng
nhập khẩu khác được bán dưới những điều kiện tối đa hóa
lợi nhuận. Bất kỳ hàng rào thương mại nào cũng sẽ dẫn đến
một giá cả cao hơn đối với người tiêu dùng trong nước nhập
khẩu và ảnh hưởng của phúc lợi của chúng đã được thảo
luận trong chương trước. (hành vi này không thể kéo dài trong dài
hạn theo định nghĩa bán hàng hóa nằm dưới chi phí bởi vì
những lỗ lã của nhà sản xuất, ngoại trừ chính phủ cho một
trợ cấp.)
Tuy nhiên, việc bán phá giá không thể kéo dài mà có những
gián đoạn của nó. Bán phá giá gián đoạn có thể có 2 loại: bán
phá giá thường xuyên và bán phá giá không
thường xuyên. Trong bán phá giá thường xuyên, một xí nghiệp nước
ngoài sẽ bán tại giá cả thấp cho đến khi những nhà sản
xuất trong nước bị loại ra khỏi thị trường; lúc đó giá cả
sẽ gia tăng bởi sự độc quyền xuất hiện. Những nhà sản
xuất trong nước lúc đó có thể được lôi kéo trở lại thị trường
cho đến khi giá cả giảm xuống trở lại. Có một tranh luận có
giá trị cho việc bảo hộ với việc bán phá giá thường xuyên do
việc di chuyển nguồn lực lãng phí. Khi những nhân tố sản xuất
di chuyển vào và ra một ngành bởi ảnh hưởng của giá cả nhập
khẩu thì chi phí và và sự lãng phí đổ dồn cho xã hội.
Việc bán phá giá không thường xuyên sẽ xuất hiện khi nhà
sản xuất nước ngoài (hoặc chính phủ) với một thặng dư sản
phẩm tạm thời xuất khẩu số này tại bất cứ giá nào mà nó
cần. Việc bán phá giá theo kiểu này có thể có những ảnh hưởng
xấu tạm thời đến việc cạnh tranh với những nhà cung cấp
trong nước chủ nhà bởi việc làm gia tăng rủi ro trong hoạt động
của ngành. Những rủi ro này cũng như sự mất mát phúc lợi từ
việc di chuyển nguồn lực tạm thời có thể được tránh khỏi
bởi việc đưa ra chính sách bảo hộ, mặc dù những ảnh hưởng
phúc lợi khác có thể được đưa vào trong phân tích khi xem xét
những hạn chế thương mại. Tuy nhiên, việc bán phá giá thường
xuyên dường như không biện hộ được việc bảo hộ trong ngắn
hạn.
Trong thực tế, vấn đề khó khăn để xác định là loại
phá giá nào đã được nêu đang xảy ra. Không có một nhà hoạch
định chính sách nào có khả năng xác định một cách đúng đắn
về động lực phía sau của việc bán phá giá.
VI.
THUẾ QUAN CHỐNG LẠI TRỢ CẤP NƯỚC NGOÀI |
Về nguyên tắc, một nhà kinh tế không phản đối việc đưa
ra thuế quan để đối phó lại việc trợ cấp nước ngoài dưới
những điều kiện nào đó, mặc dù thừ những người tiêu dùng
trong nước sẽ phải chi với mức giá cao hơn. Nếu việc trợ
cấp cho phép xí nghiệp nước ngoài trở thành nhà xuất khẩu
sản phẩm trong điều kiện không có lợi thế so sánh trong sản
phẩm đó, lúc đó trợ cấp này sẽ tạo ra
một sự bóp méo trong việc phân phối nguồn lực trong thương
mại tự do, và phúc lợi của thế giới sẽ giảm xuống do sự bóp
méo này, mặc dù phúc lợi của nước nhập khẩu có thể gia tăng
do giá cả tiêu dùng thấp hơn. Việc đưa ra thuế quan này sẽ làm
tăng cường việc duy trì một kiểu thương mại có hiệu quả hơn.
Chú ý rằng, việc áp dụng nguyên tắc chung thì khó khăn. Không
dễ dàng để xác định là việc trợ cấp nước ngoài có xảy ra
hay không và có thể những ngành cạnh tranh nhập khẩu nhanh chóng
xác nhận rằng việc trợ cấp sẽ tồn tại bởi vì họ đang bán
với một giá thấp.
VII.
THUẾ QUAN LÀM CẢI TIẾN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI |
Tranh luận này là một tranh luận chung và nó đã trở nên
nổi bật trong vài năm qua bởi sự thâm thủng mậu dịch của
Mỹ. Tranh luận này cho rằng, việc đưa ra thuế quan sẽ làm giảm
nhập khẩu. Giả định những hàng hóa xuất khẩu không bị ảnh
hưởng, thì kết quả hiển nhiên là cán cân thương mại sẽ được
cải thiện bởi vì cán cân thương mại trở nên ít âm hơn (có
nghĩa là sự thâm thủng mậu dịch sẽ giảm xuống) hoặc trở nên
thặng dư.
Những nhà kinh tế cho là tranh luận này thiếu nhận ra rằng
những tác động trở lại về mặt kinh tế chính trị của hoạt
động vụ lợi này và kết quả cuối cùng nếu như những tác động
này được tính đến sẽ dẫn đến cán cân thương mại không
được cải tiến và một sự sụt giảm trong phúc lợi. Những thí
dụ của những tác động trở lại này bao gồm:
(1)
Sự trả đũa bởi những thành viên tham gia thương mại.
(2)
Một sự gia giảm trong thu nhập quốc dân ở nước ngoài và
sự sụt giảm trong khả năng mua hàng của nước ngoài đối với
hàng hóa của nước chủ nhà.
(3)
Một sự sụt giảm hàng hóa xuất khẩu của nước chủ nhà
nếu như những hàng hóa nhập khẩu bây giờ bị loại ra đã được
đưa vào quá trình sản xuất những mặt hàng xuất khẩu ở nước
chủ nhà.
(4)
Một sự gia giảm trong những hàng hóa xuất khẩu và một
sự gia tăng hàng hóa nhập khẩu của nước chủ nhà bởi sự gia
tăng giá trị đồng tiền của nước chủ nhà.
(5)
Một sự gia giảm trong những hàng hóa xuất khẩu và một
sự gia tăng hàng hóa nhập khẩu của nước chủ nhà bởi áp lực
lạm phát ở nước chủ nhà. Bởi vì việc đưa ra thuế quan có
ảnh hưởng làm cho nhu cầu tiêu dùng hướng vào những sản phẩm
của nước chủ nhà, nên nh cầu mới này có thể tạo ra áp lực
giá cả gia tăng nếu như nước chủ nhà hầu như không có thất
nghiệp. Nếu như xu hướng lạm phát xuất hiện, lúc đó những xí
nghiệp của nước chủ nhà trở nên ít cạnh tranh hơn trên thị
trường thế giới và thị trường trong nước đối với những hàng
hóa của các quốc gia khác.
Do
vậy, việc sử dụng thuế quan không bảo đảm là cán cân thương
mại sẽ được cải thiện.
Thêm vào đó, thảo luận
sôi nổi trong những năm gần đây đã tập trung vào việc thâm
thủng mậu dịch mang tính chất vĩ mô và trên việc thuế quan
cuối cùng không có ảnh hưởng đến cán cân thương mại bởi vì
nó không giải thích được đứng về mặt vĩ mô của vấn đề
được đưa ra. Giải thích quan tâm đến việc giải thích trên cơ
sở vĩ mô của sự thâm thủng
mậu dịch có thể đơn giản được đưa ra. Trong điểm cân bằng
vĩ mô trong mô hình thu nhập quốc dân đơn giản
Y = C + I + G + (X - M)
Trong đó, Y : Thu nhập
quốc dân
C :
Tổng tiêu dùng
I :
Tổng đầu tư
G : Chi
tiêu của chính phủ cho những hàng hóa và dịch vụ
X :
Xuất khẩu
M :
Nhập khẩu
Sắp xếp lại biểu
thức trên ta được
Y - (C + I + G) = (X - M)
Bởi vì (C + I +G)
chỉ ra chi tiêu trong nước (bởi người tiêu dùng, doanh nghiệp và
chính phủ), nên kết luận ở đây sẽ là nếu như sự thâm
thủng mậu dịch tồn tại (có nghĩa là X<M), lúc đó Y< (C + I
+G), hoặc là thu nhập sẽ nhỏ hơn chi tiêu trong nước. Nói cách
khác, biểu thức sau cùng cho thấy là chúng ta đang tiêu dùng ngoài
khả năng thu nhập của chúng ta. Cách duy nhất để giảm sự thâm
thủng này là làm tăng Y, giảm chi tiêu hoặc sự kết hợp giữa
hai. Nếu sự thâm thủng là vấn đề vĩ mô thì thuế quan không có
hiệu quả cao, đặc biệt khi nền kinh tế hầu như không có thất
nghiệp và thu nhập vì thế không thể được gia tăng.
Thậm chí nếu bỏ qua vấn đề giải thích sự thâm thủng
mang tính chất vĩ mô, thì chính sách khác ngoài thuế quan ra có
thể loại trừ hoặc làm giảm sự thâm thủng mậu dịch. Sự
mất mát phúc lợi ít hơn có thể xảy ra nếu như đất nước áp
dụng một chính sách khác hiệu quả hơn đó là phá giá đồng
tiền.
CHI PHÍ CỦA
VIỆC BẢO HỘ VIỆC LÀM
TRONG MỘT NGÀNH
Thuế quan có thể ảnh hưởng đến việc làm trong những ngành
cụ thể nào đó bởi vì việc đưa ra thuế quan sẽ kích thích
sản xuất đối với những ngành thay thế nhập khẩu. Lúc này người
tiêu dùng trong nước sẽ có khuynh hướng sử dụng hàng hóa trong
nước nhiều hơn. Tuy nhiên, chi phí cho việc chuyển đổi này thì
cao. Do vậy câu hỏi được đặt ra ở đây là lợi ích được
mang lại do thuế quan trong việc tạo ra thêm việc làm so với chi
phí phải mất đi như thế nào?
Những nhà kinh tế như Gary C. Hufbauer và Kimberly A. Elliott
(1994) đã cố gắng để xem xét lại chi phí của việc bảo hộ
việc làm. Bảng số liệu dưới đây chỉ ra những ảnh hưởng
của chính sách hạn chế mậu dịch trong 12 ngành ở Mỹ. Những
số liệu trong bảng liên quan đến 1990 và dựa trên giả thuyết là
những mức thuế quan cao sẽ được giảm xuống đến 0, những
hạn chế về lượng thương mại không còn tồn tại, những mức
thuế quan thấp nằm dưới dạng những hạn ngạch.
Số liệu trong bảng rõ ràng chỉ ra rằng, nếu việc làm
của công nhân được bảo hộ thì chi phí phát sinh sẽ cao hơn
tiền lương đạt được của người công nhân trong những ngành
được đưa ra. Có thể rẻ hơn nếu như thực hiện việc chuyển
giao trực tiếp bằng tiền tệ của tiền lương hàng năm từ người
tiêu dùng cho người công nhân.
Ngành |
Số việc làm được
tạo ra |
Chi phí cho mỗi việc làm
($USD) |
Chi phí phúc lợi hàng năm
đối với Mỹ ($USD) |
Trụ chơi bóng |
146 |
438.356 |
1.000.000 |
Những hóa chất benzoid |
216 |
> 1.000.000 |
10.000.000 |
Nữ trang giả |
1.067 |
96.532 |
5.000.000 |
Những sản phẩm sữa |
2.378 |
497.897 |
104.000.000 |
Nước cam đông lạnh |
609 |
461.412 |
35.000.000 |
Ðồ thủy tinh |
1.477 |
180.095 |
9.000.000 |
Hành lý |
226 |
933.628 |
26.000.000 |
Những công cụ cơ khí |
1.556 |
348.329 |
35.000.000 |
Nhựa tổng hợp |
298 |
590.604 |
20.000.000 |
Giày dép nhựa |
1.701 |
122.281 |
12.000.000 |
Gỗ xẽ |
605 |
758.678 |
12.000.000 |
Giày, dép phụ nữ |
3.702 |
101.567 |
11.000.000 |