CHƯƠNG 4:
NHỮNG TIẾP CẬN ĐỐI VỚI SỰ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA NHỮNG NHÀ BẢO HỘ MẬU DỊCH MỚI
Trong những năm gần đây,một vài lý thuyết nói về tại
sao một đất nước có thể đạt được nguồn lợi từ một
thuế quan hoặc là công cụ chính sách thương mại khác đã xuất
hiện. Chúng thường được gọi là chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch
mới hoặc là những lý thuyết về chính sách thương mại chiến lược
. Ðặc điểm khác biệt của sự tiếp cận trong những lý thuyết
mới này là cạnh tranh không hoàn hảo tồn tại trong những ngành
được xem xét, khác với những phân tích cổ điển
trước đây là chỉ xét đến trường hợp các ngành nằm
trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo. Những cách tiếp cận mới
cho rằng, cạnh tranh không hoàn hảo mô tả tốt hơn về thế
giới xung quanh ta. Cạnh tranh không hoàn hảo thường giới thiệu
những yếu tố của sự phụ thuộc lẫn nhau
được thừa nhận của những xí nghiệp trong bất kỳ ngành nào.
Do vậy, khi quyêt định những hành động tốt nhất của
họ,thì nhửng xí nghiệp cố gắng đưa vào những phản ứng của
những xí nghiệp khác. Trong chương này, chúng ta sẽ trình bày
nhữmg tóm tắt một vài lý thuyết mới để cung cấp nền tảng
cho loại nghiên cứu này.
Trong phần đầu sẽ đưa ra một tình trạng mang tính lý
thuyết, trong đó một thuế quan của nước chủ nhà sẽ dẫn đến
một sự chuyển giao một phần lợi nhuận của xí nghiệp độc
quyền nước ngoài đến nước chủ nhà. Trong phần kế tiếp, chúng
ta sẽ xem xét - trong ngữ cảnh của một xí nghiệp nước chủ nhà
và một xí nghiệp nước ngoài - việc bảo hộ mậu dịch có thể
tạo ra việc thực hiện kinh tế qui mô và lượng xuất khẩu lớn
hơn cho xí nghiệp được bảo hộ như thế nào. Ðiều này được
thực hiện trong khuôn khổ của hai xí nghiệp giống nhau, nhưng
một xí nghiệp nằm trong ngữ cảnh của một ảnh hưởng có thể
có lợi của việc bảo hộ trên lĩnh vực nghiên cứu và phát
triển. Phần cuối sẽ xây dựng một trường hợp có thể đối
với việc sử dụng một trợ cấp xuất khẩu. Luôn giữ trong đầu
rằng, trong khi nghiên cứu những cách tiếp cận khác nhau- cái mà
rất khó để xác định xem việc bảo hộ mậu dịch trong bất
kỳ thí dụ cụ thể nào có khả năng để cuối cùng mang lại
nguồn lợi cho nước đưa ra sự bảo hộ hay không. Thêm vào đó,
giống như hầu hết những nhà
kinh tế, chúng ta có những hạn chế trong xem xét việc sử dụng
những tranh luận này đối với việc bảo hộ mậu dịch như là
một cơ sở cho chính sách thương mại- những hạn chế mà chúng
ta sẽ chỉ ra tại một vài điểm trong chương này.
NỘI
DUNG CHÍNH
I. Thuế quan để lấy lại độc quyền nước ngoài |
Phân tích này được khởi xướng bởi James Brander và Barbara
Spencer (1981) trong khuôn khổ của một nước chủ nhà đối mặt
với một nhà cung cấp dộc quyền nước ngoài. Giả thuyết hạn
chế được tạo ra là xí nghiệp nước ngoài là nhà cung cấp duy
nhất sản phẩm này trong thị trường thế giới và như vậy là
không có sản xuất trong nước- nước chủ nhà phụ thuộc hoàn toàn
vào xí nghiệp độc quyền nước ngoài đối với sản phẩm này.
Ðồ thị 1 dưới đây sẽ chỉ ra bản chất cơ bản của pân tích.
Ðường cầu D biểu
hiện nhu cầu của nước chủ nhà đối với sản phẩm của xí
nghiệp độc quyền nước ngoài. Bởi vì xì nghiệp đối mặt
với đường cầu có độ dốc đi xuống (không giống với trường
hợp cạnh tranh hoàn hảo - nơi xí nghiệp đối mặt với đường
cầu nằm ngang) nên thu nhập cận biên sẽ nhỏ hơn giá cả. Giả
sử để cho đơn giản hơn là chi phí cận biên không đổi (có nghĩa
là mỗi đơn vị sản lượng thêm vào được tạo ra sẽ có cùng
một chi phí như những đơn vị trước đó ) và giả sử là không
có những chi phí cố định và chi phí vận chuyển. Ðiều nầy
sẽ dẫn đến đường chi phí cận biên ( MC ) sẽ là đường nằm
ngang bằng với đường chi phí bình quân ( AC ).
Ðồ thị 1: Một
Thuế Quan để lấy lại lợi nhuận độc quyền nưóc ngoài.
Khi không có
thuế quan của nước chủ nhà, xí nghiệp độc quyền nưóc ngoài
sẽ bán lượng OP1 cho thị trường của nước chủ nhà tại giá
OP1, được xác định bởi giao điểm MR và MC . với một thuế
quan xảy ra, chi phí bán hàng cận biên của nhà độc quyền nước
ngoài trong thị trường nước chủ nhà là MC+t , ở đó t là lượng
thuế quan trên mỗi đơn vị hàng hóa. Lượng hàng hóa tối đa hòa
với lợi nhuận mới bây giờ là Oq2 ( MR=MC+t ). Những người tiêu
dùng trong nước chủ nhà bây giờ chi với giá P1P2 SR. Tuy nhiên, nước
chủ nhà sẽ đạt được lượng thu nhập thuế quan bằng với
diện tích tứ giác C1 C2 GH - là một phần lợi nhuận kinh tế trước
đây của nhà độc quyền nước ngoài này.
Với thương mại tự do, xí nghiệp sẽ đặt
MR= MC để tối đa hóa lợi nhuận và lượng hàng hóa sẽ được
chuyển đến nước chủ nhà sẽ là Oq1. Giá cả được mua sẽ là
Op1 và lợi nhuận (kinh tế) của xí nghiệp sẽ bằng với diện tích
của tứ giác c1p1RF. Bởi vì xí nghiệp sản xuất là một nhà độc
quyền, nên không có áp lực cạnh tranh buộc giá cả bằng với MC
(hoặcAC).
Bây giờ giả sử rằng, nước chủ nhà
muốn đạt được một phần lợi nhuận độc quyền nước ngoài
này, làm như thế có thể có nghĩa là tạo ra một sư gia tăng
trong phúc lợi của nước chủ nhà từ nhà độc quyền nước ngoài.
Nếu như một thuế quan được đưa vào-cái phải được chi trên
mỗi đơn vị hàng hóa bởi xí nghiệp nước ngoài trước khi nó
được phép bán hàng hóa trong nước chủ nhà - lúc đó đường chi
phí cận biên sẽ dịch chuyển đi lên theo hướng thẳng đứng
tới MC+t, ở đây t là lượng thuế trên mỗi đơn vị . Ðối
với xí nghiệp nước ngoài, thuế này đơn giản là một dạng chi
phí khác đi cùng với việc bán mỗi đơn vị hàng hóa trong nước
chủ nhà, do vậy tối đa hóa lợi nhuận bây giờ cân bằng thu
nhập cận biên với chi phí cận biên mới MC+t. Lượng hàng hóa
được sản xuất đối với nước chủ nhà sẽ giảm xuống tới
Oq2 và giá cả được mua sẽ là Op2.
Ðể xem xét sự thay đổi phúc lợi trong nước
đưa ra thuế quan, chúng ta sẽ xem xét lợi nhuận của xí nghiệp
độc quyền. Lợi nhuận sau khi có thuế quan là diện tích c2p2SG. Còn
diện tích c1c2GH là gì? Vùng này thể hiện cho thu nhập thuế quan
và nó cũng biểu hiện cho lợi nhuận trước đây của nhà độc quyền đã chuyển cho nước
chủ nhà. Cái đạt được này của nước chủ nhà được đánh
đổi với sự mất mát trong thặng dư tiêu dùng của những người
tiêu dùng trong nước chủ nhà với lượng bằng với diện tích
p1p2SR. Nhưng nếu diện tích c1c2GH lớn hơn diện tích p1p2SR, lúc đó
nước chủ nhà đã thành công trong việc nâng cao phúc lợi của nó
từ cái mất mát của nhà sản xuất nước ngoài. Rõ ràng, sự can
thiệp này có thể là đáng mong mõi đối với nước chủ nhà.
Trong khi một phần lợi nhuận kinh tế đã
được chuyển cho nước chủ nhà, thì nhà kinh tế không nhất
thiết kết luận rằng hoạt động bảo hộ mậu dịch đã mang
lại lợi ích , thậm chí nếu như sự chuyển giao lợi nhuận
nhiều hơn là sư mất mát trong thặng dư tiêu dùng. Bởi do có
thuế quan nên hiệu quả và phúc lợi của thế giới đã giảm
bởi vì trong một tình trạng độc quyền, thì hiệu quả và phúc
lợi sẽ được nâng cao nếu như những hành động khiến cho nhà
độc quyền giảm giá cả và tăng sản lượng. Ở đây điều ngược
lại đã xảy ra với việc đưa vào thuế quan đối với sản
phẩm của nhà độc quyền! Do vậy, một sự đạt được về phúc
lợi cúa nước chủ nhà có thể xảy ra trong khi thế giới như là
toàn bộ sẽ bị mất mát (một tình trạng làm nghèo người hàng
xóm). Một phân tích đầy đủ của việc nên thực hiện hoạt động
này hay không cũng đòi hỏi xem xét những vấn đề như triễn
vọng về sự trả đũa của nước ngoài đối với những hàng hóa
được nhập khẩu từ nước chủ nhà.
II - Kinh tế qui mô trong một khuôn Khổ một cặp xí nghiệp |
Một sự đóng góp khác vào lý thuyết của những người ủng hộ
chế độ mậu dịch mới được
đưa ra từ nhà kinh tế Paul Kougman
(1984). - trong mô hính của ông,
Kougman giả sử rằng có 2 xí nghiệp trong một ngành, một cặp xí
nghiệp - một xí nghiệp trong nước và một xí nghiệp nước ngoài
, họ cạnh tranh với nhau trong những thị trường khắp thế giới
(bao gồm trong nững thị trường của mỗi nước). Mục đích của
Kougman là sẽ chứng minh việc bảo hộ nhập khẩu cho một xí
nghiệp sẽ dẫn đến một sự gia tăng trong xuất khẩu cho xí
nghiệp được bảo vệ như thế nào trong bất kỳ thị trường nước
ngoài nào mà xí nghiệp sẽ hoạt động ở đó. Hai giả thuyết đặc
biệt quan trọng là: (1) chi phí cận biên giảm với một sự gia tăng
trong sản phẩm và (2) mỗi xí nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng của
hoạt động từ những xí nghiệp khác khi tạo những quyết định
về giá cả và sản lượng. Cuối cùng xí nghiệp của nước chủ
nhà nhận thức được rằng, thu nhập của nó sẽ phụ thuộc cùng
hướng với sản lượng của chính nó và không ngược hướng đối
với sản lượng của xí nghiệp nước ngoài. Sự phụ thuộc lẫn
nhau được thừa nhận này không tồn tại trong mô hình cạnh tranh
hoàn hảo.
Với sự phụ thuộc lẫn nhau được thừa
nhận, chúng ta có thể nghĩ về những hàm phản ứng của mỗi xí
nghiệp trong mỗi thị trường ( xem đồ thị 2 ).Dấu hiệu Xi trên
trục hoành biểu hiện lượng hàng hóa bán của xí nghiệp chủ nhà
trong bất kỳ thị trường i nào đó, trong khi X*i trên trục tung
biểu hiện lượng hàng hóa bán của xí nghiệp nước ngoài trong cùng
một thị trường. HH là hàm phản ứng của xí nghiệp chủ nhà. Hàm
này ngụ ý nói rằng, nếu như xí nghiệp nước ngoài gia tăng
doanh số lượng hàng bán
trong thị trường (một sự gia tăng trong X*i) lúc đó xí nghiệp
của nước chủ nhà nhận ra rằng, giá cả của hàng hóa sẽ bị
giảm. Do vậy những cơ hội lợi nhuận cho xí nghiệp nước chủ
nhà sẽ giảm xuống làm cho lượng được bán bởi xí nghiệp nước
chủ nhà sẽ giảm xuống (Xi). Hàm phản ứng đối với xí nghiệp
nước chủ nhà có độ dốc đi xuống. Giống vậy, ta có đường
FF biểu hiện cho hàm phản ứng của xí nghiệp nước ngoài.
Những hàm phản ứng này chỉ ra mức hàng hóa bán có khả năng
mang lại lợi nhuận cao nhất trong thị trường i cho mỗi xí
nghiệp với những mức hàng bán khác nhau của xí nghiệp khác được
biết. Chú ý rằng, những hàm này được vẽ ra cho một chi phí
cận biên được đưa ra, muốn nói rằng tổng sản lượng của
mỗi xí nghiệp là không đổi nhưng lượng hàng hóa bán ra trong
bất kỳ thị trường nào đó có thể thay đổi. Cuối cùng, vị
trí cân bằng sẽ ở tại điểm E, nơi mà mỗi xí nghiệp sẽ bán
một lượng hàng hóa dưới điều kiện tối đa hóa lợi nhuận
của nó khi biết được hành vi của xí nghiệp khác.
Hàm phản
ứng HH chỉ ra mức hàng hóa bán trong điều kiện tối đa hóa
lợi nhuận trong thị trường của nước thứ ba đối với xí
nghiệp nước chủ nhà với mức hàng hóa bán của xí nghiệp nước
ngoài khác nhau đã được biết. HH có độ dốc đi xuống bởi vì
lượng hàng hóa nước ngoài được gia tăng sẽ làm giảm giá cả
và lợi nhuận của xí nghiệp nước chủ nhà. Do đó xí nghiệp đó
sẽ thu nhỏ lượng hàng bán lại. Hàm phản ứng FF chỉ ra mức hàng
hóa bán trong điều kiện tối đa hoá lợi nhuận của xí nghiệp nước
ngoài với những mức hàng hóa bán khác nhau của xí nghiệp nước
chủ nhà đã biết và nó có độ dốc đi xuống với những lý do
tương tự. Tại những điểm A,B.và C, những mức độ hàng hóa bán
sẽ thay đổi đến khi đạt được tới điểm cân bằng E.
Ðể thấy được tại sao điểm E đạt
được, chúng ta sẽ xem xét điểm A. Nếu như hai xí nghiệp sẽ
sản xuất cho thị trường này tại điểm A, thì lúc đó xí
nghiệp nước chủ nhà sẽ được thỏa mãn với lượng hàng hóa
bán của nó là OX1. Những xí nghiệp nước ngoài sẽ không được
thỏa mãn với lượng hàng bán OX*1 của nó. Ðể tối đa hóa lợi
nhuận, xí nghiệp nước ngoài sẽ cắt giảm sản xuất tới OX*1
bởi vì xí nghiệp này đã sản xuất quá nhiều cho lợi nhuận
tối đa tại điểm A. Với sự thay đổi này trong hàng hóa bán
của xí nghiệp nước ngoài, điểm B sẽ đạt được. Tuy nhiên, B
không phải là điểm tối đa hóa lợi nhuận cho xí nghiệp chủ nhà
và nó mở rộng sản xuất đến OX2, do đó nó đạt tới diểm C.
quá trình này sẽ tiếp tục cho đến khi điểm E đạt được.
Sự di chuyển này tới điểm E xảy ra bởi vì chúng ta đã vẽ HH
dốc hơn FF. Nếu FF được vẽ dốc hơn HH, thì điểm cân bằng
sẽ không bền vững và nó sẽ buộc các xí nghiệp đạt được
điểm cân bằng xa điểm E hơn nếu như chúng không gặp nhau tại
điểm E. Bởi vì những sự di chuyển xa điểm cân bằng liên tục
dính líu đến những thay đổi cơ bản trong thị phần thì không
thường được quan sát trong những thị trường độc quyền nhóm,
Kougman xem những độ dốc của đồ thị 2 là thích đáng hơn so
với trường hợp ngược lại.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét mức tổng
sản lượng của mỗi xí nghiệp hơn là mức hàng hóa bán trong
mỗi thị trường mà xí nghiệp đáp ứng nhu cầu. Nhớ giả
thuyết rằng, chi phí cận biên giảm khi sản lượng gia tăng. Thêm
vào đó, giả thuyết là một sự dịch chuyển đi xuống hoặc
một sự giảm trong chi phí cận biên sẽ dẫn đến một sự gia tăng
trong sản lượng khi đường thu nhập cận biên là đường cầu đã
biết. Với mối quan hệ này trong đầu, xem xét đồ thị 3a. Trục
hoành đo lường tổng sản lượng của xí nghiệp nước chủ nhà,
cái mà đến lược nó là tổng lượng hàng hóa bán trong tất cả
các thị trường mà xí nghiệp nước chủ nhà cung
cấp .Trục tung thể hiện chi phí cận biên của xí nghiệp nước
chủ nhà. Ðường MM phản ảnh giả thuyết là một sự gia tăng
trong sản lượng (dọc theo trục hoành) sẽ làm cho chi phí cận biên
giảm; đường QQ sẽ phản ảnh quan hệ ngược lại rằng, một
sự gia giảm trong chi phí cận biên (dọc theo trục tung) sẽ làm tăng
sản lượng. Ðiểm cân bằng bây giờ là T, tại đây không có động
lực cho xí nghiệp thay đổi mức sản lượng của nó. Dĩ nhiên
một đồ thị giống vậy (không được chỉ ra ở đây) có thể
được tạo ra cho xí nghiệp nước ngoài, với tổng sản lượng
của xí nghiệp đó xuất hiện tại điểm mà đường M*M* (giống
với MM) giao với đường Q*Q* ( giống với QQ)
Ðồ thị 3: Bảo
hộ mậu dịch của nước chủ nhà và lượng hàng hóa bán của xí
nghiệp của nước chủ nhà thông qua kinh tế qui mô
Trong đồ
thị 3(a), đường QQ chỉ ra rằng một sự giảm xuống trong chi phí
cận biên sẽ đem lại một tổng sản lượng lớn hơn. Sản lượng
này bằng tổng tất cả hàng hóa bán của xí nghiệp trong tất
cả những thị trường i. Ðường MM sẽ chỉ ra sự có mặt của
kinh tế qui mô, bởi vì những mức sản lượng lớn hơn sẽ dẫn
đến chi phí cận biên thấp hơn. Ðiểm cân bằng đối với xí
nghiệp xuất hiện tại điểm T. Tại điểm này, xí nghiệp không
có động lực để làm thay đổi mức sản lượng của nó. Một
thuế quan nhập khẩu của nước chủ nhà sẽ làm dịch chuyển
đường QQ tới QQ, bởi vì xí nghiệp có thể bán nhiều sản lượng
hơn ở thị trường trong nước tại mỗi mức độ chi phí cận biên,
với QQ hiện hữu thì chi phí cận biên của xí nghiệp nước chủ
nhà sẽ giảm xuống. Hậu quả của sự sụt giảm này trong chi phí
cận biên là (trong đồ thị b), hàm phản ứng của xí nghiệp nước
chủ nhà trong bất kỳ thị trường xuất khẩu i nào sẽ làm
dịch chuyển HH tới HH. Thêm vào đó, bởi vì việc bảo hộ mậu
dịch của nước chủ nhà đã làm giảm lượng hàng hóa bán của
xí nghiệp nước ngoài trong thị trường nước chủ nhà nên chi phí
cận biên của xí nghiệp nước ngoài sẽ gia tăng và hàm phản
ứng của nó trong đồ thị 3(b) sẽ dịch chuyển vào trong từ FF
tới FF. Do vậy, điểm cân bằng sẽ dịch chuyển từ E đến E,
với xí nghiệp nước chủ nhà đạt đượt lượng hàng hóa bán
trong mỗi thị trường tại chi phí của xí nghiệp nước ngoài.
Với cách thiết lập này, hãy xem xét ảnh hưởng của việc
bảo hộ mậu dịch. Giả sử rằng chính phủ của nước chủ nhà
đưa ra một thuế quan hoặc một hạn ngạch nhập khẩu trên việc
nhập khẩu hàng hóa cuả xí nghiệp nước ngoài. Xí nghiệp này có
ảnh hưởng đến việc duy trì một phần thị trường trong nước
chủ nhà của xí nghiệp nước chủ nhà. Aính hưởng ban đầu
của việc bảo hộ mậu dịch này đặt lên sản lượng của nươc
chủ nhà (dồ thị 3a). Bởi vì sản lượng của xí nghiệp nước
chủ nhà đã gia tăng với bất kỳ mức chi phí cận biên nào. Ðường
QQ sẽ dịch chuyển sang bên phải dến QQ, làm cho điểm cân bằng
T bây giờ dịch chuyển đến T, nơi mà chi phí cận biên thấp hơn
bị gánh chịu. Trong đồ thị giống vậy cho xí nghiệp nước ngoài
(không được chỉ ra ở đây),đường Q*Q* của xí nghiệp nước
ngoài sẽ dịch chuyển sang trái. Ít sản lượng hơn được đi cùng
với mỗi mức chi phí cận biên bởi vì một số thị trường
trong nước chủ nhà bây giờ đã bị từ chối bởi xí nghiệp nước
ngoài. Kết quả sẽ là một sự gia tăng trong chi phí cận biên
của xí nghiệp nước ngoài.
Bởi vì chi phí cận biên đã thay đổi đối
với mỗi xí nghiệp,nên có sự phản hồi trên những hàm phản
ứng do những hàm đó được vẽ ra từng cái với chi phí cận biên
đã biết. Trong đồ thị3(b), việc gia giảm trong chi phí cận biên
của xí nghiệp nước chủ nhà đã làm cho hàng hóa bán ra của xí
nghiệp này gia tăng lên với mỗi mức độ hàng hóa bán của xí
nghiệp nước ngoài được đưa ra trong mỗi thị trường xuất
khẩu; Có nghĩa là HH sẽ dịch chuyển sang bên phải tới HH.
Giống vậy, sự gia tăng trong chi phí cận biên của xí nghiệp nước
ngoài sẽ làm cho FF dịch chuyển đi xuống theo trục trong tới FF,
bởi vì xí nghiệp nước ngoài sẽ bán một lượng hàng hóa nhỏ
hơn với mỗi mức hàng hóa bán của xí nghiệp nước chủ nhà. Do
vậy, điểm cân bằng trong bối cảnh một cặp xí nghiệp trong
mỗi thị trường bây giờ sẽ là điểm E thay vì E và xí nghiệp
nước chủ nhà đã đạt được hàng hóa bán trong tất cả những
thị trường tại phí tổn của xí nghiệp nước ngoài. Lý thuyết
bảo hộ mậu dịch có thể được gọi là thuế quan để thúc đẩy
xuất khẩu thông qua kinh tế qui mô,
bởi vì những hàng hóa bán mới này trong tất cả những thị
trường i là những hàng hóa xuất khẩu từ nước chủ nhà.
Krugman đã đưa ra phân tích kinh tế qui mô
thực chất không phải như là một đề nghị cho việc bảo hộ
mậu dịch, nhưng nó như là một giải thích cho tình trạng khẩn
cấp của Nhật Bản được xem là một nhà xuất khẩu dẫn đầu
của một vài sản phẩm mà những nhà sản xuất trong nước của
chúng buổi đầu đã được bảo hộ (thí dụ: xe hơi). Tuy nhiên,
khi xem xét nó như là một cơ sở cho việc kiến nghị việc bảo
hộ mậu dịch, thì nước ngoài có khả năng trả đũa bằng việc
thiết lập một thuế quan của nó.Kết quả cuối cùng là những
thị phần tương đối không bị ảnh hưởng nhưng dung lượng thương
mại sẽ giảm đáng kể. Thêm vào đó, như trong nhiều tranh luận
của những người ủng hộ chế độ mậu dịch mới thì những
nguồn lực được sử dụng để mở rộng ngành được bảo hộ
sẽ làm cho sản lượng của những ngành khác giảm đi và những
chi phí cơ hội nàycần phải được xem xét.
III. Nghiên cứu, phát triển và hàng hóa bán ra của xí nghiệp nước chủ nhà. |
Cách tiếp cận này đối với việc bảo
hộ mậu dịch đã cũng được đưa ra bởi Paul Krugman (1984). Nó có
vài cái giống với cách tiếp cận kinh tế qui mô nhưng nhấn
mạnh khía cạnh khác là bảo hộ mậu dịch sẽ tạo ra một sự
gia tăng trong xuất khẩu của xí nghiệp nước chủ nhà. Trong
việc xem xét này thuế quan sẽ làm thúc đẩy xuất khẩu thông qua
việc nghiên cứu và phát triễn, giả sử lại rằng một cấu trúc
thị trường có một cặp xí nghiệp nước chủ nhà và một xí
nghiệp nước ngoài tồn tại và chúng cạnh tranh với nhau trong
nhiều thị trường. Tuy nhiên, giả sử rằng chi phí cận biên cho
mỗi xí nghiệp không thay đổi với mức sản lượng(có nghĩa là
đường chi phí cận biên là đường nằm ngang), nhưng với bất
kỳ mức sản lượng nào thì chi phí cận biên sẽ phụ thuộc vào
việc đầu tư nghiên cứu và phat triễn (R&D).Mối quan hệ này
nghịch hướng với nhau có nghĩa là một lượng chi trả cho R&D
lớn hơn (trên những đặc tính sản phẩm mới, qui trình sản
xuất mới,v.v...) sẽ dẫn đến một sự gia giảm trong chi phí
cận biên. Ðến lượt nó, lượng chi trên cho nghiên cứu và phát
triển là một hàm thuận hướng với mức độ sản lượng, khi
sản lượng hiện tại lớn hơn sẽ tạo ra một lượng lợi
nhuận lớn hơn, cái có thể được sử dụng để tài trợ thêm
cho R&D (giả sử là xí nhiệp không vay tiền từ thị trường
vốn để tài trợ cho R&D).
Mối quan hệ chủ yếu trong mô hình R&D
này được chỉ ra ở đồ thị 4. Lượng chi cho RxD bởi xí
nghiệp nước chủ nhà được đo lường trên trục tung và sản lượng
của xí nghiệp này được đo lường trên trục hoành như là
tổng lượng hàng hóa bán ra của xí nghiệp trong tất cả thị trường
i. Ðường MM có độ dốc đi lên chỉ ra rằng, khi sản lượng gia
tăng thì lượng chi cho R&D sẽ gia tăng bởi vì lượng lợi
nhuận lớn hơn. Ðường QQ với độ dốc đi lên chỉ ra sự phụ
thuộc của sản lượng trên R&D: Khi R&D gia tăng, thì chi phí
cận biên giảm xuống, đến lượt nó, nó sẽ giúp cho xí nghiệp
bán một lượng sản lượng lớn hơn. Tính chắc chắn qua lại
của hai mối quan hệ xuất hiện khi xí nghiệp được đặt tại
điểm cân bằng T. Một đồ thị giống vậy sẽ được biểu
hiện cho xí nghiệp nước ngoài.
Ðồ
thị 4: Bảo hộ mậu dịch, chi tiêu và sản lượng cho R&D của
nước chủ nhà
Ðường MM
chỉ ra rằng, với một sự gia tăng trong tổng sản lượng của xí
nghiệp nước chủ nhà thì chi phí cho R&D sẽ tăng lên do lợi
nhuận lớn hơn . Ðường QQ phản ảnh thực tế rằng, khi chi phí
cho R&D gia tăng, thì chi phí cận biêncủa xí nghiệp sẽ giâm và
một sản lượng lớn hơn sẽ được tạo ra. Ðiểm cân bằng ban
đầu của xí nghiệp tại điểm T. Với việc đặt ra một thuế
quan bởi chính phủ nước chủ nhà thì xí nghiệp nước chủ nhà
có thể tạo ra nhiều sản lượng hơn cho thị trường trong nước
tại mọi mức độ R&D, có nghĩa là
QQ sẽ dịch chuển sang bên phải tới QQ. Sự gia tăng này
trong sản lượng sẽ cho phép lượng chi cho R&D lớn hơn khi điểm
cân bằng chuyển đến T và việc R&D lớn hơn sẽ tạo ra lượng
hàng hóa bán ra nhiều hơn cho xí nghiệp trng toàn bộ thị trường
i.
Những kết quả của việc bảo hộ mậu
dịch trong mô hình này giống với những kết quả trong mô hình
kinh tế qui mô. Giả sử chính phủ của nước chủ nhà đưa ra
một thuế quan để duy trì một phần thị trường trong nước cho
xí nghiệp nước chủ nhà. Aính hưởng của việc bảo hộ mậu
dịch này là đường QQ sẽ dịch chuyển sang bên phải đến QQ.
Sự dịch chuyển này chỉ ra rằng, một lượng sản lượng lớn hơn
bây giờ sẽ được nối kết với mỗi lượng chi cho R&D. Nhưng
chú ý rằng, điểm cân bằng mới T sẽ tạo ra một lượng chi
lớn hơn cho R&D, cái sẽ làm cho chi phí cận biên thấp hơn, do
đó xí nghiệp có khả năng để đạt được một lượng hàng hóa
bán ra cao hơn so với xí nghiệp nước ngoài trong tất cả những
thị trường. Cái đạt được trong lượng hàng hóa bán ra trong
sự mất mát của xí nghiệp nước ngoài được tăng cường khi chúng
ta nhớ rằng quá trình ngược lại sẽ xảy ra đối với xí
nghiệp nước ngoài. Ðối với xí nghiệp đó, có một sự gia
giảm trong sản lượng đi cùng với mỗi mức của R&D. Kết
quả cuối cùng là một sự gia giảm trong chi tiêu cho R&D và
một sự gia tăng trong chi phí cận biên đối với xí nghiệp nước
ngoài, dẫn đến một sự gia giảm trong hàng hóa bán ra bởi xí
nghiệp đó trong mỗi thị trường được đáp ứng nhu cầu bởi
cặp xí nghiệp này.
Trong đánh giá tranh luận này, chúng ta
phải chỉ ra khả năng trả đuã và những chi phí cơ hội trước
đó của việc đưa nhiều nguồn lực hơn vào ngành định hướng
R&D. Thêm vào đó, tranh luận sẽ giả sử rằng hàng hóa bán ra
của xí nghiệp là những yếu tố quyết định chủ yếu của
R&D, nhưng những nhân tố khác như bảo hộ bằng sáng chế cũng
có thể là quan trọng. Hơn nữa, nhiều R&D có thể được hướng
đến việc phát triển sản phẩm mới hơn là việc hướng tới làm
giảm chi phí của những hàng hóa hiện hữu.
Ðiểm cơ bản xem xét kinh tế qui mô và
R&D trong mối quan hệ đến việc bảo hộ mậu dịch trong hai
phần của chương này là việc bảo hộ nhập khẩu đứng về
mặt tiềm năng có thể tạo ra xuất khẩu. Ðể rõ hơn bản chất
của loại bảo hộ này chúng ta xem tình huống 1.
IV.Trợ cấp xuất khẩu trong cấu trúc thị trường có cặp xí nghiệp |
Cách
tiếp cận này đối với sự can thiệp của chính phủ đã được
đưa ra đầu tiên bởi Barbara Spencer và James Brander (1983) và đã
được trình bày trong một hình thức có thể hiểu được mà ít
kỹ thuật hơn bởi Gene Grossman và David
Richardson (1985). Phân tích giả sử lại rằng một ngữ cảnh
có cặp xí nghiệp - một xí nghiệp nước chủ nhà và một xí
nghiệp nước ngoài.Những xí nghiệp này cạnh tranh với nhau về lượng
hàng hóa bán ra trong thị trường của nước thứ ba; có nghĩa là,
trong một thị trường không phải là thị trường trong nước
của cả hai xí nghiệp này và nó được giả sử rằng hai xí
ngiệp này không bán bất kỳ lượng hàng hóa nào trong những thị
trường trong nước của chúng. Ðồ thị 5 sẽ được sử dụng
cho phân tích này, đồ thị này sẽ sử dụng lại đồ thị 2
trong chương này.
Ðồ thị 5: Aính hưởng
của một trợ cấp xuất khẩu của nước chủ nhà trong thị trường
của nước thứ ba
Không có
trợ cấp xuất khẩu, thì những xí nghiệp nước ngoài và nước
chủ nhà sẽ đạt tới điểm cân bằng E, nơi mà xí nghiệp nước
chủ nhà sẽ bán lượng OX1 và xí nghiệp nước ngoài sẽ bán lượng
OX*1. Nếu chính phủ của nước chủ nhà đưa ra một trợ cấp
xuất khẩu cho xí nghiệp nước chủ nhà, thì hàm phản ứng của
nước chủ nhà sẽ dịch chuyển từ HH đến HH bởi vì những chi
phí sản xuất được chi bởi bởi xí nghiệp đã giảm và nhiều
sản lượng hơn được tạo ra. Ðiểm cân bằng mới tại điểm
E; lượng hàng hóa bán của nước chủ nhà sẽ gia tăng tới OX2
trong khi lượng hàng hóa bán của xí nghiệp nước ngoài giảm
xuống tới OX*2.
Trong khuôn khổ cặp xí nghiệp này và điểm
cân bằng E được đưa ra, giả sử rằng xí nghiệp nước chủ nhà
muốn mở rộng thị phần và lợi nhuận của nó
bởi
việc di chuyển đến điểm E(tạm thời bỏ qua đường HH). Do đó,
xí nghiệp nước chủ nhà đe dọa để mở rộng lượng hàng hóa
bán đến OX2 từ mức hiện tại là OX1. Nếu như sự mở rộng
xảy ra thì xí nghiệp nước ngoài sẽ giảm lượng hàng bán của
nó xuống dọc theo đường FF từ OX*1 tới OX*2, một sự co lại
của lượng hàng hóa bán của xí nghệp nước ngoài- cái thật
sự từ bỏ thị phần cho xí nghiệp nước chủ nhà. Tuy nhiên ,
những xí nghiệp nhận thức được hoạt động của xí nghiệp khác
nên xí nghiệp nước ngoài sẽ không giảm lượng hàng hóa bán
của nó đối với việc đe dọa của xí nghiệp nước chủ nhà
tại điểm E.Lý do cho hành động này là xí nghiệp nước ngoài
biết rằng sự đe dọa này không đủ tin tưởng bởi vì xí
nghiệp trong nước sẽ luôn luôn chọn hoạt động trên đường HH
để tối đa hóa lợi nhuận. Xí nghiệp nước ngoài biết rằng,
nếu như sản xuất tại OX*2, thì xí nghiệp nước chủ nhà sẽ
tạo ra một lợi nhuận lớn hơn bởi việc sản xuất OX3 đơn vị
hơn là OX2 đơn vị, do vậy xí nghiệp nước chủ nhà sẽ sản
xuất tại lượng OX3 cho việc tối đa hóa lợi nhuận.
Trong trường hợp này, Spencer và Barbara chỉ ra rằng, có một vai trò tiềm năng cho
một trợ cấp xuất khẩu đối với xí nghiệp nước chủ nhà
bởi chính phủ nước chủ nhà. Nếu trợ cấp này được ban bố
và công bố trước bởi chính phủ, lúc đó xí nghiệp nước chủ
nhà sẽ sẵn lòng để thực hiện mở rộng hàng hóa bán với
mỗi mức hàng hóa bán ra của xí nghiệp nước ngoài. Ðường HH
sẽ dịch chuyển sang bên phải tới HH bởi trợ cấp này. Sự
dịch chuyển trong hàm phản ứng của xí nghiệp nước chủ nhà
sẽ tạo ra mối đe dọa gia tăng lượng hàng hóa xuất khẩu tới
OX2. Xí nghiệp nước ngoài bây giờ nhận ra rằng, nó phải giảm
lượng hàng bán của nó tới OX*2 bởi vì nó muốn hoạt động
của nó nằm trên hàm phản ứng. Kết quả cuối cùng của việc
sử dụng trợ cấp xuất khẩu là vị trí cân bằng sẽ nằm tại
E. Lượng hàng hóa bán ra và lợi nhuận gia tăng của xí nghiệp nước
chủ nhà sẽ làm nâng cao thặng dư sản xuất của những nhà sản
xuất trong nước chủ nhà, và trong điều kiện những yếu tố khác
bằng nhau, thì nước chủ nhà có thể đạt được phúc lợi nếu
như sự gia tăng trong thặng dư sản xuất cao hơn chi phí trợ
cấp.(Trong mô hình không có thặng dư tiêu dùng giảm trong nước
chủ nhà bởi vì sản phẩm không được sử dụng tại nước nhà.
Nếu có, phân tích sẽ phức tạp hơn, nhưng một sự đạt được
vẫn xảy ra.) Dĩ nhiên là phúc lợi của nước chủ nhà được
gia tăng trong sự mất mát cuả xí nghiệp nưóc ngoài, cái có
thặng dư sản xuất thấp hơn bởi việc lượng hàng hóa bán
giảm xuống.
Ðiều nên được chú ý là chính phủ
của nước ngoài có thể phản ứng lại cùng với chính sách trợ
cấp này bằng việc Thực hiện một trợ cấp xuất khẩu cho xí
nghiệp nước ngoài. Ðiều này sẽ làm cho đường FF dịch chuyển
lên trên về phía bên phải trong đồ thị 5 và xí nghiệp nước
ngoài sẽ đạt lại được thị phần.
David collie (1991) đã
đưa ra một phản ứng khác đối với một trợ cấp mặc dù Ông
ta có những xí nghiệp bán hàng hóa trong những thị trường của
nhau. Trong mô hình của ông ta, nước ngoài sẽ phản ứng lại đối
với chính sách trợ cấp xuất khẩu của nước chủ nhà bởi
việc đặt ra một thuế quan bù lại hơn là việc thực hiện một
trợ cấp xuất khẩu. Ðiều này sẽ cho phép nước ngoài lấy
lại một phần lợi nhuận của xí nghiệp nước ngoài như là thu
nhập thuế quan- lợi nhuận đã được chuyển giao cho xí nghiệp nước
chủ nhà bởi trợ cấp xuất khẩu lúc ban đầu- Trong trường
hợp của một đất nước lớn, thuế này sẽ làm hạ thấp tỷ
số thương mại của nước chủ nhà và nước chủ nhà sẽ mất mát
phúc lợi từ trợ cấp xuất khẩu của nó. Collie kết luận
rằng, việc sử dụng thuế này của nước ngoài có khả năng gây
trở ngại cho nước chủ nhà từ việc trợ cấp xuất khẩu cho nước
chủ nhà trước hết.
Việc sử dụng trợ cấp để nâng cao
xuất khẩu có thể đưọc chỉ ra trong điều kiện cụ thể hơn
bởi một thí dụ bằng số. Giả sử rằng xí nghiệp nước chủ
nhà H và một xí nghiệp nước ngoài F dự định sản xuất cho
thị trường thế giới một sản phẩm với một qui mô đáng kể
. Hình 6 chỉ ra một ma trận kết toán cho 4 tình trạng có thể
xảy ra. Ở phía bên trái ở trên
của ma trận chỉ ra rằng, nếu cả hai xí nghiệp đều sản
xuất ra sản phẩm, thì mỗi xí nghiệp sẽ mất 20 triệu đô la vì
thị trường không đủ lớn để cả hai xí nghiệp sản xuất ra
sản phẩm đứng về mặt kinh tế. Phần phía bên phải ở trên
của ma trận chỉ ra rằng, sản xuất bởi xí nghiệp H và xí
nghiệp F không sản xuất sẽ tạo ra 200 triệu đô la lợi nhuận
cho xí nghiệp nước chủ nhà trong khi xí nghiệp nước ngoài không
đạt được lợi nhuận nào. Ở phía bên trái ở dưới của ma
trận trái ngược với ở phía bên phải ở trên của ma trận.
Cuối cùng, nếu cả hai xí nghiệp đều không sản xuất ra sản
phẩm, thì lợi nhuận sẽ bằng 0 cho mỗi xí nghiệp như được
chỉ ra ở phía bên phải ở dưới của ma trận.
Trong hình 6, kết quả của trò chơi là không
chắc chắn. Tuy nhiên, giả sử rằng chính phủ của nước chủ nhà
công bố là sẽ ban cho một trợ cấp 50 triệu đô la cho xí
nghiệp H nếu nó sản xuất ra sản phẩm cho thị trường thế
giới. Với điều kiện ràng buộc này, ma trận kết toán bây giờ
thể hiện như được chỉ ra trong hình 7. Phía bên trái và phải
ở trên của ma trận phản ảnh 50 triệu đô la trợ cấp cho xí
nghiệp nước chủ nhà. Xí nghiệp nước chủ nhà sẽ sản xuất
ra hàng hóa mà không có vấn đề là xí nghiệp nước ngoài sản
xuất như thế nào bởi vì nó có một lợi nhuận bảo đảm. Trợ
cấp sẽ bảo đảm rằng xí nghiệp H sẽ chi phối thị trường; xí
nghiệp F sẽ không sản xuất bởi vì nó không bao giờ đạt được
lợi nhuận khi xí nghiệp nước chủ nhà tham gia vào sản xuất. Cũng
chú ý rằng, việc trợ cấp 50 triệu đô la của chính phủ sẽ
tạo ra 250 triệu lợi nhuận cho những nhà sản xuất trong nước
chủ nhà, cái có thể làm gia tăng phúc lợi của quốc gia. Dĩ nhiên
không có bảo đảm rằng, chính phủ nước ngoài sè không trả
đũa bằng chính sách trợ cấp của nó. Thêm vào đó, nếu như tiêu
dùng trong nước tồn tại, thì một trợ cấp xuất khẩu bởi chính
phủ nước chủ nhà sẽ làm gia tăng giá cả cho những người tiêu
dùng trong nước và do vậy sẽ làm giảm phúc lợi tiêu dùng.
Những cơ hội của đất nước trong việc cải thiện phúc lợi
chung của nó thông qua trợ cấp vì thế sẽ bị giảm xuống.
Hình số 6: Ma trận
kết toán mang tính giả thuyết đối với xí nghiệp nước chủ nhà
và xí nghiệp nước ngoài
Giả sử là
qui mô đủ lớn để tồn tại việc sản xuất. Nếu cả hai xí
nghiệp đều tạo ra hàng hóa, thì mỗi xí nghiệp sẽ chịu lỗ 20
triệu đô la; nếu không có xí nghiệp nào sản xuất hàng hóa, thì
không xảy ra việc thua lỗ (và không nhận được lợi nhuận).
Nếu một xí nghiệp sản xuất và xí nghiệp kia không sản xuất,
thì xí nghiệp sản xuất sẽ đạt được lợi nhuận là 200
triệu đô la, trong khi xí nghiệp kia không đạt được lợi nhuận
nào cả. Có một kết quả không chắc chắn đối với trò chơi này.
Ðối với thảo luận về trợ cấp của
một xí nghiệp trong ngữ cảnh của hai xí nghiệp lớn cạnh tranh
trên thị trường thế giới, hãy xem tình huống 2.
Hình số 7: Ma trận
kết toán được giả thuyết cho xí nghiệp nước chủ nhà và xí
nghiệp nước ngoài, với một trợ cấp 50 triệu đô la cho xí
nghiệp nước chủ nhà
Với trợ
cấp của chính phủ nước chủ nhà, xí nghiệp nước chủ nhà luôn
luôn chọn việc tiến hành sản xuất bởi vì một lợi nhuận được
đảm bảo. Xí nghiệp nước ngoài sẽ lỗ 20 triệu đô la nếu nó
cũng sản xuất, do vậy nó dẽ không sản xuất. Chính vì vậy,
kết quả của trò chơi là xác định.
TÌNH HUỐNG 1: Mục tiêu của những ngành công
nghiệp ở Nhật
Một thí dụ được trích dẫn thường xuyên về sư can
thiệp của chính phủ đối với việc thúc đẩy xuất khẩu là
Mục tiêu của những ngành công nghiệp ở Nhật suốt nghững năm
50,60, và 70, ở đó nhiều biện pháp được giới thiệu với mục
tiêu phát triển năng lực ngành và phục vụ cho thị trường thế
giới. Thí dụ, ngành sản xuất thép được nhận trợ cấp,
những lợi thế về thuế đặc biệt và tỷ lệ lãi suất dưới
giá thị trường đối với những món vay. Thêm vào đó, khi người
Nhật giới hạn về vốn trong những năm 1950, họ đã hoạch định
ngành thép như là ngành được ưu tiên được nhận vốn vay.
Nhập khẩu trong ngành sản xuất xe hơi bị giới hạn bởi những
kiểm soát trên những hoạt động trao đổi nước ngoài, và hướng
dẫn của chính phủ đã qui định rằng một phần của các linh
kiện được sử dụng bởi những nhà sản xuất xe hơi sẽ được
tạo ra ở Nhật để thúc đẩy lĩnh vực chế tạo linh kiện của
ngành. Trong nỗ lực để công nghiệp hóa, những ngành chủ chốt
được xác định và đã được đưa cho những động lực thúc đẩy
đặc biệt. Ngân hàng phát triển Nhật Bản đã cung cấp những món
vay với lãi suất thấp cho những ngành được ưu tiên và năm
1953, luật thương mại xuất nhập khẩu đã cho phép hình thành
những cacten của các nhà sản xuất để cố định giá cả và
hạn chế nhập khẩu (khoảng 1971 đã có trên 200 cacten hợp pháp
ở Nhật Bản). Trong những năm 1970, Bộ công nghiệp và ngoại thương
(MITI) đã đưa ra sự ủng hộ mạnh mẽ cho việc nghiên cứu và phát
triễn đối với những ngànhcông nghiệp cao cấp như mạch điện
tổng hợp và máy vi tính.
Với những biện pháp này, Nhật Bản đã
đạt được sự thành công trong xuất khẩu một cách đáng kể
trong một số ngành điện tử, ô tô, thép, máy móc cơ khí và đóng
tàu. Tuy nhiên, thành công này không nhất thiết cho là chỉ được
dẫn đến bởi những biện pháp định hướng. Thí dụ,
Krugman đã chỉ ra rằng, Nhật Bản đã có thể tạo ra một lợi
thế cạnh tranh so với Mỹ trong ngành thép thậm chí không có sự
ủng hộ của chính phủ, bởi vì vốn sẵn có đã gia tăng do tỷ
lệ tiết kiệm của Nhật cao và chi phí lao động của Mỹ cao hơn
nhiều so với Nhật trong ngành thép. Thêm vào đó, Robert
Crandall (1986) đã báo cáo rằng, những nhà sản xuất ô tô
của Mỹ đã phản ứng chậm so với Nhật đối với cuộc khủng hoảng dầu hỏa những năm
1970 thông qua việc giảm kích cỡ của những phương tiện vận
chuyển để thích nghi với những luật lệ của Mỹ về vấn đề
ô nhiễm và sử dụng năng lượng. Thêm vào đó, Karl
Zinsmeister (1993) đã kết luận rằng, những cố gắng của
MITI tự chúng để định hướng những ngành đã không chạy được
xa hơn cái mà họ đã thành công. Ông ta đã trích dẫn ra những
thất bại trong ngành hàng không, tàu vũ trụ, và những ngành công
nghệ sinh học cũng như trong việc phát triễn những nguồn năng lượng
thay thế cho dầu hỏa.
Việc xuất hiện sự thành công trong xuất
khẩu của Nhật cũng đã tạo ra những kết quả làm giảm bớt cái
gì đó chống lại với chiến lược định hướng xuất khẩu. Thí
dụ, vào cuối những năm 1970 Mỹ đã đưa ra một cơ chế giá cả
gọn gàng hơn thông qua cơ chế này những hàng hóa thép nhập
khẩu vào Mỹ dưới giá được
xác định sẽ kích động một quan sát về việc chống lại việc
bán hàng hóa thừa ra nước ngoài với giá thấp. Khoảng 1985, hàng
loạt các hiệp ước hạn chế tự nguyện ( VRAs ) đã được đề
ra để hạn chế hàng thép nhập khẩu vào Mỹ từ Nhật và một
số các nước khác với một tổng số khoảng 20% của thị trương
Mỹ. Những VRAs này đã được mở rộng trong năm 1990 trong 2,5 năm,
sau đó chúng đã không được
đổi mới. Krugman đã kết luận rằng, việc định hướng ngành
thép của Nhật Bản đã dẫn đến việc phân phối quá nhiều
vốn cho một ngành có thu nhập thấp do một sự cung cấp thép
thừa thải trên thế giới. Trong khi vốn có thể được sử dụng
tốt hơn trong những ngành công nghiệp khác của Nhật. Zinsmeister
(1993) thêm vào rằng, ngành thép của Nhật đã thật sự là máy
nạo vét thực trên thu nhập quốc gia. Cuối cùng, sự thành công
của việc xuất khẩu ô tô Nhật sang Mỹ đã dẫn đến sự thương
thuyết của một hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER) trong năm
1981. Thương mại trong những chất bán dẫn và xuất khẩu những công
cụ máy móc của Nhật sang Mỹ cũng đã bị hạn chế trong năm
1986.
TÌNH
HUỐNG 2:
Hảng
hàng không
Airbus
Một thí dụ về trợ cấp của chính phủ
để thúc đẩy cạnh tranh quốc tế là hãng hàng không châu âu, hãng
Airbus. Hãng này được thành lập 1970.Airbus là một liên hiệp công
ty bao gồm những xí nghiệp từ Pháp chiếm 38% sở hữu, Ðức 38%,
Anh 20%, Tây Ban Nha 4%. Pháp đã cấp cho công ty hơn 3 triệu đô la
để giúp đỡ sản xuất máy bay phản lực (nhưng mong đợi được
trả lại khi những máy bay này được bán). Ðức đã đưa ra
những món vay và bảo đảm vay. Anh và Tây Ban Nha cũng đã đưa
vốn trước. Không có cách chính xác để đo lường mức độ
trợ cấp, những bộ thương mại của Mỹ đã ước tính rằng,
những xí nghiệp thành viên trong Airbus đã nhận được khoảng 26
triệu đô la.
Ðối thủ cạnh tranh mạnh nhất của
Airbus là hãng Boeing của Mỹ. Boeing là công ty xuất khẩu lớn
nhất của Mỹ (trong tất cả các ngành) với 53% sản phẩm hàng không
được bán ra nước ngoài. Loại máy bay dân sự đã là một loại
sản phẩm xuất khẩu lớn của Mỹ trong nhiều năm. Thực vậy,
hai xí nghiệp có triển vọng cạnh tranh mạnh hơn khi thị trường
của những máy bay có khả năng tải trọng lớn và vừa mở rộng
trong những năm 1990. Boeing và những nhà sản xuất khác của Mỹ dĩ
nhiên than phiền về những trợ cấp nhận được bởi hãng Airbus.
Mặc dầu Boeing, General Dynamics và McDonnell Douglas đã nhận 41
triệu đô la dưới dạng những trợ cấp gián tiếp từ quân đội
chính phủ Mỹ và những hợp đồng không gian. Trong một cố gắng
để kiểm soát những trợ cấp, Mỹ và Cộng đồng châu âu đã ký
một hợp đồng về hạn chế trợ cấp còn 33% của chi phí phát
triễn máy bay năm 1992 (Davis, 1993), nhưng tranh luận đã bùng nổ
trở lại vào đầu năm 1993.
Cuối cùng, Richard
Baldwin đã ước tính
rằng, bởi những trợ cấp cho AirBus, Châu Âu có thể mất mát phúc
lợi và Mỹ cũng vậy bởi vì lợi nhuận của Boeing đã bị giảm
nhiều hơn là những cái đạt được bởi những người sử dụng
máy bay từ việc giảm giá cả. Những người đạt được duy
nhất là những đất nước khác, nơi mà những hãng hàng không
với hành khách của họ đã đạt được từ giá cả máy bay
thấp hơn. Có lẽ chính sách thương mại chiến lược chỉ mang
lại lợi ích cho những đất nước không dính líu đến việc
sản xuất ra máy bay.
TÓM
TẮT
Chương
này đã trình bày và xem xét vài lý thuyết mới về những lợi ích
có thể có được của việc bảo hộ mậu dịch. Những lý
thuyết này xây dựng trên bản chất cạnh tranh không hoàn hảo
trong nhiều ngành và nhấn mạnh rằng, hành động đơn phương có
thể mang đến lợi ích tiềm năng như là một sự chuyển giao
của lợi nhuận độc quyền nước ngoài và thừa nhận kinh tế
qui mô sẽ dẫn đến xuất khẩu lớn hơn. Một sự gia tăng trong
chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển, với hàng hóa xuất khẩu
được nâng lên sau đó, cũng có thể đạt được thông qua việc
bảo hộ thị trường trong nước.Thêm vào đó, những trợ cấp
xuất khẩu có thể được sử dụng để nâng cao thị phần của
xí nghỉệp trong nước chủ nhà trong thị trường nước ngoài,do
vậy trong một số trường hợp sẽ làm cải tiến phúc lợi của
nước chủ nhà. Tuy nhiên, việc bảo hộ mậu dịch dựa trên
những phân tích này không nhất thiết đảm bảo một sự cải
thiện trong phúc lợi của nước chủ nhà, bởi vì trong số những
cái khác, thì sự trả đũa của nước ngoài sẽ bị lỡ đi. Thêm
vào đó, những người khởi xướng những lý thuyết này không
nhất thiết là kiến nghị việc bảo hộ mậu dịch nhưng
mục đích để chỉ ra những ứng dụng có thể của việc thoát
khỏi giả thuyết cạnh tranh hoàn hảo của chính sách thương mại
cổ điển.