CHƯƠNG 5:
SỰ HỢP NHẤT KINH TẾ
Trong những thảo luận truớc đây của chúng ta về chính sách
thương mại, nói chung chúng ta đã thực hiện phân tích trong một
khuôn khổ mà tại đó một đất nước đang gia tăng hoặc giảm
bớt những hàng rào thương mại chống lại tất cả những nước
tham gia thương mại một cách đồng thời và thống nhất. Tuy nhiên,
thương mại quốc tế diễn ra ngày càng nhiều trong một ngữ
cảnh mà tại đó những đất nước sẽ có những đối xử khác
nhau đối với những thành viên tham gia thương mại của chúng. Cách
đối xử này thường xuất hiện thông qua sự hợp nhất kinh tế,
nơi mà những đất nước sẽ cùng nhau tạo ra một tổ chức kinh
tế lớn hơn với những mối quan hệ đặc biệt giữa những thành
viên. Trong chương này, chúng ta sẽ thảo luận một vài loại hình
hợp nhất kinh tế khác nhau và trình bày một khuôn khổ cho việc
phân tích những ảnh hưởng về phúc lợi của những mối quan
hệ đặc biệt này, đồng thờiì xem xét những nỗ lực hợp
nhất gần đây trong nền kinh tế thế giới. Ðiều được đưa ra
ở đây là những nỗ lực hợp nhất như là Thỏa Hiệp Thương
Mại Tự Do Bắc Mỹ (NAFTA) đang được tranh luận sôi nổi. Ðiều
quan trọng là những sinh viên kinh tế cần có một sự hiểu biết
cơ bản về thương mại chung và những ảnh hưởng về phúc lợi
của những thỏa hiệp này.
I. Những loại hình hợp nhất kinh tế |
Khi những đất nước hình thành những liên kết kinh tế, thì
những nỗ lực của họ sẽ biểu hiện một sự di chuyển từng
phần tới thương mại tự do và mỗi đất nước sẽ cố gắng để
đạt được một vài lợi ích nào đó từ một nền kinh tế mở
hơn mà không triệt tiêu quyền kiểm soát qua những hàng hóa và
dịch vụ đi ngang qua biên giới của nó và do vậy cũng sẽ không
triệt tiêu sự kiểm soát về cấu trúc
của
sản xuất và tiêu dùng của nó. Những đất nước gia nhập vào
những thỏa hiệp thương mại đặc biệt sớm nhận ra rằng, nếu
chúng tháo gỡ càng nhiều những ràng buộc trên sự di chuyển
của hàng hóa và dịch vụ giữa những thành viên trong nhóm, thì
quyền kiểm soát trong nước của nền kinh tế sẽ bị mất đi càng
nhiều. Kết quả là, những hoạt động hợp nhất kinh tế thường
xảy ra theo từng bước và thỏa hiệp ưu đãi ban đầu sẽ ít đe
dọa đến sự mất mát quyền kiểm soát hơn so với những bước
sau. Bốn loại hình hợp nhất kinh tế cơ bản theo vùng được
giới thiệu ở đây
1.Vùng thương mại tự do (FTA) |
Kế hoạch hợp nhất phổ biến nhất được đề cập đến
là vùng thương mại tự do (FTA),
trong đó tất cả những thành viên của nhóm sẽ tháo gỡ
những thuế quan trên những sản phẩm với nhau, trong khi cùng lúc
đó mỗi thành viên vẫn duy trì sự độc lập của nó trong việc
thiết lập những chính sách thương mại với những nước không
thành viên. Nói cách khác, những thành viên của FTA có thể duy trì
những thuế quan riêng và những hàng rào thương mại khác đối
với
2. Hiệp Hội Thuế Quan |
Mức độ hợp nhất kinh tế thứ hai là Hiệp Hội Thuế
Quan. Trong bước này, tất cả những thuế quan được tháo gỡ
giữa các nước thành viên và nhóm sẽ thực hiện một chính sách
thương mại bên ngoài chung đối với những nước không thành viên.
Hơn thế nữa, nhóm sẽ hành động như là một khối trong thương
thuyết của tất cả những thỏa hiệp thương mại với các nước
không thành viên.Sự
tồn
tại của thuế quan bên ngoài chung sẽ đẩy lùi khả năng chuyển
hàng bởi những nước không thành viên. Hiệp hội thuế quan vì
vậy hướng gần tới sự hợp nhất kinh tế hơn so với FTA. Một
thí dụ của Hiệp Hội Thuế Quan bao gồm: Belgium, the
Netherlands và Luxembourg (Benelux) được thành lập năm 1947 và
sát nhập vào Cộng Ðồng Châu Âu năm 1958.
3.Thị trường chung |
Mức độ hợp nhất kinh tế thứ ba là thị trường chung,
trong đó tất cả những thuế quan được tháo gỡ giữa các nước
thành viên, một chính sách thương mại bên ngoài chung sẽ được
sử dụng đối với những nước không thành viên và tất cả
những hàng rào thương mại đối với những sự dịch chuyển nhân
tố giữa những nước thành viên biểu hiện một mức độ hợp
nhất cao hơn, đồng thời sự kiểm soát trong nước của nền kinh
tế bị giảm xuống. Những hiệp ước Rome năm 1957 đã thiết
lập một thị trường chung trong Cộng Ðồng Châu Âu ( E C ) cái chính
thức hoạt động vào ngày 1/ 1/ 1958 và trở thành Liên Minh Châu Âu
(
E U ) vào ngày 1/ 1/ 1993.
4.Liên minh kinh tế |
Hinh
thức toàn diện nhất của bốn loại hình hợp nhất kinh tế là
liên
minh kinh tế. Nó bao gồm tất cả những đặc điểm của một
thị trường chung nhưng cũng muốn nói đến sự hợp nhất
của những tổ chức kinh tế và sự phối hợp của chính sách
kinh tế trong tất cả những nước thành viên. Trong khi sự tồn
tại về mặt chính trị một cách độc lập vẫn biểu hiện, thì
một liên minh kinh tế nói chung thiết lập vài tổ chức siêu
quốc gia, mà những quyết định của nó bị ràng buộc bởi tất
cả những thành viên. Khi một liên minh kinh tế áp dụng một đồng
tiền chung, thì nó sẽ trở thành một liên minh tiền tệ. Trong khi
mức độ hợp nhất kinh tế này thường được mong mõi và đã
được thông qua bởi 12 nước thành viên của Liên Minh Châu Âu
(EU), thì những đất nước thành viên đã nhận thấy là cực kỳ
khó khăn để hủy bỏ quyền tối cao trong nước mà kế hoạch đòi
hỏi.
Do vậy, có vài hình thức hợp nhất kinh tế khác nhau và những tổ chức hợp nhất đang tồn tại sẽ có những đặc tính khác nhau.
II. Những ảnh hưởng tĩnh và động của sự hợp nhất kinh tế |
1. Những ảnh hưởng tĩnh của sự hợp nhất kinh tế |
Sự hợp nhất kinh tế muốn nói đến sự đối xử khác
nhau của những nước thành viên đối với những nước không thành
viên. Bởi vì loại hợp nhất này có thể dẫn đến sự dịch
chuyển kiểu thương mại giữa những nước thành viên và không thành
viên. Nói chung, ảnh hưởng thực trên một nước tham gia thì mơ
hồ và phải được đánh giá
trên cơ sở của từng nước. Trong khi sự hợp nhất biểu hiện
một sự chuyển dịch đến thương mại tự do trong những nước
thành viên, thì đồng thời nó có thể dẫn đến luồng thương
mại từ những nước không thành viên
có
chi phí thấp hơn ( nưóc vẫn đối mặt với những thuế quan bên
ngoài của nhóm ) tới một nước thành viên ( nước không còn đối
mặt với bất kỳ thuế quan nào.) Hai ảnh hưởng tĩnh này của
sự hợp nhất kinh tế, có nghĩa là chúng xảy ra một cách trực
tiếp đến sự hình thành của dự án hợp nhất, được gọi là
một sự tạo ra thương mại và sự trệch hướng thương
mại. Những thuật ngữ này được đặt ra bởi Jacob
Viner (1950), người đã định nghĩa việc tạo ra thương
mại sẽ xảy ra bất cứ lúc nào mà sự hợp nhất kinh tế dẫn
đến một sự dịch chuyển trong nguồn gốc sản phẩm từ một nhà
sản xuất trong nước có chi phí nguồn lực cao hơn so với một nhà
sản xuất thành viên có chi phí nguồn lực thấp hơn. Sự dịch
chuyển này biểu hiện một sự di chuyển theo hướng phân phối
nguồn lực thương mại tự do và do vậy có thể mang lại lợi ích
về phúc lợi. Sự trệch hướng thương mại xảy ra bất cứ lúc
nào có một sự dịch chuyển trong nguồn gốc của sản phẩm từ
một nhà sản xuất không thành viên có chi phí nguồn lực thấp hơn
đến một nhà sản xuất thành viên có chi phí nguồn lực cao hơn.
Sự dịch chuyển nầy biểu hiện một sự di chuyển theo hướng xa
rời phân phối nguồn lực thương mại tự do và có thể làm
giảm phúc lợi. Bởi vì cả 2 ảnh hưởng này rõ ràng có thể
xảy ra với sự hợp nhất kinh tế, nên tự chúng ta thấy được
một thế giới của cái tốt nhất thứ hai, bởi vì sự hợp
nhất kinh tế chỉ biểu hiện một phần dịch chuyển đến thương
mại tự do. Vấn đề nó có tạo ra một ích lợi thực đối với
những nước tham gia hay không là vấn đề thực nghiệm.
Chúng ta hãy tiếp cận với vấn đề cái tốt nhất thứ hai
này (cái tốt nhất là thương mại tự do hoàn toàn ) bởi việc
xem xét ảnh hưởng của sự hợp nhất kinh tế trong một thị trường
cho một hàng hóa riêng lẽ nào đó ở một trong những nước thành
viên, đất nước A. Trong đồ thị 1, DA là đường cầu của
những người tiêu dùng trong đất nước A đối với sản phẩm và
SA là đường cung của những nhà sản xuất trong nước của đất
nước A. Giả sử rằng, đất nước A sẽ nhập khẩu hàng hóa
từ đất nước B, cũng như tạo ra nó trong nước trước khi hình
thành sự hợp nhất kinh tế ( thí dụ, một hiệp hội thuế quan
). Nếu đất nước A là người nhận giá cả thị trường trong
thị trường thế giới với giá 1 đô la trên sản phẩm từ đất
nước B và có một thuế quan 50% trên hàng hóa, lúc đó giá cả
trong đất nước A là 1,5 đô la trên sản phẩm, lượng được tiêu
dùng là 200 đơn vị sản phẩm và lượng được cung trong nước là
160 đơn vị sản phẩm. Lượng nhập khẩu của A từ B là 40 đơn
vị. Khi thuế quan được tháo gỡ trên hàng hóa của đất nước
B bởi hiệp hội, thì giá cả hàng hóa ở A sẽ giảm xuống tới
1 đô la, lượng được tiêu dùng sẽ gia tăng tới 250 đơn vị, lượng
được sản xuất trong nước giảm xuống tới 100 đơn vị và lượng
được nhập khẩu sẽ gia tăng tới 150 đơn vị (= 250-100 ).
Trước khi hợp nhất kinh tế, giá cả của hàng hóa trong đất
nước A là 1,5 đô la trên sản phẩm (= 1 đô la trong đất nước B
cộng cho 50% thuế quan ) Với sự hợp nhất giữa A và B, thuế quan
được tháo gỡ và đất nước A bây giờ sẽ nhập khẩu 150 đơn
vị sản phẩm ( 250-100 ) so với 40 đơn vị sản phẩm trước đó
( 200-160 ) từ đất nước B. 60 đơn vị sản phẩm ( 160-100 ) của
hàng hóa nhập khẩu được gia tăng sẽ thay thế cho sản xuất
trong nước trước đó và 50 đơn vị sản phẩm ( 250-200 ) phản
ảnh lượng tiêu dùng lớn hơn tại giá cả mới 1 đô la trên
sản phẩm đối với người tiêu dùng của đất nước A. Aính hưởng
phúc lợi thực là tổng của những vùng b và d hoặc ( 1/2 ) ( 60 )
( 0,5 ) + ( 1/2 ) ( 50 ) ( 0,5 ) = 27,50 .
Ðây là một liên minh tạo ra thương mại trong suy nghĩ của
Viner, bởi vì 60 đơn vị sản phẩm đã được chuyển từ
nhà sản xuất trong nước chủ nhà A đến nhà sản xuất trong đất
nước B có chi phí thấp hơn. Thêm vào sự dịch chuyển trong
nguồn sản xuất, những người tiêu dùng sẽ đạt được nguồn
lợi từ một lượng tiêu dùng lớn hơn. (Vinner
đã không chú ý tới ảnh hưởng tiêu dùng.) Aính hưởng phúc
lợi trên đất nước A rõ ràng là dương. Những người tiêu dùng
đãî nhận được thặng dư tiêu dùng thêm vào đó bằng với vùng
a + b + c + d . Trong lượng thặng dư tiêu dùng này, a là một
chuyển đổi của thặng dư sản xuất từ những nhà cung cấp
của đất nước A, trong khi c là thu nhập thuế quan đã đổ dồn
về cho người tiêu dùng của đất nước A. Do vậy, phúc lợi
thực đạt được của đất nước bao gồm vùng b + d. Trong thí
dụ, b = (1/2) (60) (0,5)= 15 trong khi d = (1/2) (50) (0,5) = 12,5. Toàn bộ
đất nước A đã gia tăng phúc lợi của nó bởi một lượng
bằng =15 + 12,5 = 27,5. Aính hưởng
bây giờ đã chắc chắn bởi vì sự tạo ra thương mại này biểu
hiện một sự di chuyển tới thương mại tự do với nước tham
gia hợp nhất kinh tế.
Trước khi liên minh với đất nước B, đất nước A có
một thuế quan 50% trên những hàng hóa nhập khẩu. Do vậy, giá
cả bao gồm thuế quan của đất nước C trong thị trường của đất
nước A là 1,5 đô la trên một sản phẩm và giá cả bao gồm
thuế quan của đất nước B là 1,8 đô la (không được chỉ ra).
Trước khi liên minh được hình thành, đất nước A sẽ nhập
khẩu 50 đơn vị sản phẩm ( 180-130 ) từ C. Khi liên minh được
thiết lập với B, đất nước A sẽ nhập khẩu 100 đơn vị sản
phẩm (200 - 100) tất cả đến từ đất nước B, nước không còn
đối mặt với thuế quan. Sự thay đổi phúc lợi thực đối với
A là sự khác biệt giữa vùng b + d (một ảnh hưởng dương do giá
cả thấp hơn ở A) và vùng e (một ảnh hưởng âm do sự mất mát
của thu nhập thuế quan). Trong thí dụ này, phúc lợi bị giảm đi
bởi vùng b + d = ( 1/2 ) ( 30 ) ( 0,3 ) + ( 1/2 ) (20 ) ( 0,3 ) = 4,5 + 3 =
7,5, trong khi e = (50) (0,2) = 10
Giả sử rằng, chúng ta sẽ xem xét 3 đất nước: A,B và C. A
là nước chủ nhà,B là nước thành viên tiềm năng và C là nước
không thành viên. Chi phí sản xuất trong C là 1 đô la và chi phí
trong B là 1,2 đô la, nhưng giá cả sản phẩm trong nước chủ nhà
A là 1,5 đô la, bởi vì A có một thuế quan 50%. Trong thí dụ này,
đất nước A sẽ mua từ đất nước C bởi vì giá cả sản phẩm
của C bao gồm cả thuế quan thấp hơn của B (= 1,2 + 50% (1,2) =
1,8). Bây giờ giả sử rằng, đất nước A sẽ hình thành một
hiệp hội thuế quan với đất nước B và hủy bỏ sự bảo hộ
mậu dịch của nó đối với đất nước B, như là một phần
của thỏa hiệp hợp nhất, trong khi vẫn duy trì việc bảo hộ
mậu dịch đối với đất nước C. Ðất nước A bây giờ sẽ mua
sản phẩm với giá 1,2 đô la từ đất nươc B, so với giá cả bao
gồm thuế quan của đất nước C là 1,5 đô la. Mặc dầu C
vẫn là nhà cung cấp có chi phí sản xuất thấp. C không còn
cạnh tranh trong thị trường của A bởi sự đối xử ưu đãi
của đất nước A đối với đất nước B.Kết quả là, đất nước
A sẽ dịch chuyển từ C đến B như là nguồn của sản phẩm này.
Aính hưởng trong A là sẽ làm giảm giá cả trong nước từ 1,5 đô
la đến 1,2 đô la, một sự thay đổi tạo ra một sự đạt được
trong phúc lợi bằng với hai tam giác mất mát phúc lợi xã hội b
và d.
Tuy
nhiên, cái đạt được trong phúc lợi trong những vùng b và d không
phải là tổng ảnh hưởng phúc lợi. Bởi vì đất nước A bây
giờ sẽ nhập khẩu từ đất nước B và không có hàng rào thuế
quan đối với đất nước B, chính phủ A sẽ không còn nhận được
khoảng thu nhập thuế quan nữa. Thu nhập mà trước đây thu được
bằng với sự khác biệt giữa giá cả cung cấp với chi phí thấp
(1 đô la) trong đất nước C và giá cả trong nước trước đó
(1,5 đô la) cho mỗi đơn vị được nhập khẩu. Giá trị của
khoảng thu nhập này bằng với diện tích của hai tứ gíac e và c.
Tứ giác c phản ảnh phần thu nhập của chính phủ bị mất đi
sau khi hợp nhất, cái này được chuyển cho người tiêu dùng trong
nước thông qua giá cả giảm. Tứ giác e biểu hiện sự khác
biệt trong chi phí giữa nước không thành viên và nước thành viên
có chi phí cao hơn, như là chi phí của sự di chuyển đến nhà
sản xuất ít hiệu quả hơn trong phần thu nhập của chính phủ
bị mất mát. Aính hưởng thực của sự hợp nhất kinh tế giữa
đất nước A và đất nước B trong trường hợp này phụ thuộc vào
tổng (b + d - e). Không chắc chắn là tổng b + d sẽ lớn hơn e.
Trong những thuật ngữ của Viner,
vùng e biểu hiện sự khác biệt trong chi phí trên mỗi đơn vị
giữa đất nước B và đất nưóc C (1,2-1 = 0,2) nhân cho lượng thương
mại bị trệch -50 đơn vị
ban đầu (180 - 130). Sự trệch hướng thương mại này có giá trị
(0,2) (50) = 10 đô la . Những vùng b và d lại biểu hiện thặng dư
tiêu dùng đạt được, cái không phải là sự chuyển giao từ
những nhà sản xuất trong nước và chính phủ. Diện tích b thật
sự là một ảnh hưởng tạo ra thương mại (hiệu quả được
cải thiện) bởi vì 30 đơn vị của hàng hóa (130-100) bây giờ
được tạo ra tại một chi phí thấp hơn trong đất nước B hơn là
trước đây trong đất nước A. Aính hưởng này có một giá trị
là (1/2) (30) (0,3) = 4,5. Diện tích d biểu hiện cho cái đạt được
của thặng dư tiêu dùng còn lại từ giá cả thấp hơn cho những
người tiêu dùng của đất nước A và bằng với (1/2) (20 = 200 -
180) (0,3) = 3. Kết quả là, ảnh hưởng thực của sự hợp nhất
giữa A và B trong thị trường này là một sự mất mát của 2,5 đô
la (4,5 + 3 - 10). Nếu hiệp hội thuế quan dính líu tới sự trệch
hướng thương mại nào đó, thì có thể chắc chắn là phúc lợi
có thể bị giảm xuống đối với đất nước A. Kết luận này cũng
có thể bị sai lệch trong một ngữ cảnh cân bằng chung với đường
PPF và những đường bàng quang cộng đồng
( xem giải thích 1 )
Trong trường hợp chệch hướng thương mại này, chú ý
rằng giá cả trong nước thành viên tiếp cận càng gần với giá
cả thế giới có chi phí thấp, thì ảnh hưởng của sự hợp
nhất trên thị trường đang nói đến sẽ có nhiều khả năng dương
hơn. Thêm vào đó, ảnh hưởng của sự hợp nhất có khả năng dương
nhiều hơn khi tỷ lệ thuế quan ban đầu càng cao, bởi vì vùng b và
d mỗi cái sẽ lớn hơn. (Trong trường hợp đặc biệt, nếu thuế
quan ban đầu làm ngăn cấm hoàn toàn việc nhập khẩu của A, thì
sẽ không có sự mất mát phúc lợi nào từ sự trệch hướng thương
mại.) Hơn nữa những đường cung và cầu càng co giãn, thì ảnh hưởng
của sự hợp nhất càng có khả năng dương hơn bởi vì những
đường này càng co giản, thì phản ứng về lượng của cả hai
người tiêu dùng và nhà sản xuất
càng
lớn hơn; Do vậy vùng b và d sẽ lớn hơn. Cuối cùng, sự hợp
nhất có thể có lợi hơn khi có số nước tham gia nhiều hơn,
bởi vì có một nhóm nước nhỏ hơn thì thương mại sẽ bị
trệch hướng. Trường hợp đặc biệt xảy ra khi tất cả những
nước trên thế giới chấp thuận sự hợp nhất bởi vì có thể
không có sự trệch hướng thương mại. (xem tình huống về những
ước lượng của sự tạo ra thương mại và sự trệch hướng thương
mại đã xảy ra với việc hình thành Cộng Ðồng Châu Âu).
Chúng ta cũng nên đề cập đến những ảnh hưởng tĩnh khác
của sự hợp nhất kinh tế, những cái có thể đi cùng với một
sự liên minh. Trước hết, sự hợp nhất kinh tế có thể dẫn đến
một sự tiết kiệm trong lĩnh vực quản lý bởi sự loại bỏ nhu
cầu nhân viên nhà nước để quản lý những hàng hóa và dịch
vụ đi qua biên giới. Hai là, qui mô kinh tế của hiệp hội có
thể cải tiến được tỷ số thương
mại chung đối với phần còn lại của thế giới được so sánh
với những tỷ số bình quân đạt được trước đó bởi những
nước thành viên riêng rẽ. Cuối cùng, những nước thành viên
sẽ có quyền lực mua bán lớn hơn trong những thương thuyết thương
mại với những nước thuộc phần còn lại của thế giới hơn trước
đó.
2. Những ảnh hưởng động của sự hợp nhất kinh tế |
Thêm vào những ảnh hưởng tĩnh của sự hợp nhất kinh
tế, điều có thể là cấu trúc và hoạt động kinh tế của
những nước tham gia có thể tiến triển đáng kể so với nếu như
chúng đã không hợp nhất về mặt kinh tế. Những nhân tố làm
cho điều này xảy ra là những ảnh hưởng động của sự
hợp nhất kinh tế. Thí dụ, việc giảm những hàng rào thương
mại sẽ dẫn đến một môi trường cạnh tranh hơn và có
thể làm giảm mức độc quyền biểu hiện trước khi hợp nhất.
Thêm vào đó, con đường dẫn đến những thị trường liên kết
lớn hơn có thể cho phép kinh tế qui mô sẽ được thực hiện
trong những hàng hóa xuất khẩu nào đó. Những kinh tế qui mô này
có thể dẫn đến xí nghiệp xuất khẩu trong một nước tham gia
khi nó trở nên lớn hơn hoặc chúng có thể dẫn đến từ việc
hạ thấp những chi phí của những nhập lượng do những thay đổi
kinh tế bên ngoài đối với xí nghiệp. Trong cả hai trường hợp,
chúng bị gây ra bởi việc mở rộng thị trường được mang vào
bởi mối quan hệ thành viên trong liên minh. Việc thực hiện kinh
tế qui mô cũng có thể dính líu tới việc chuyên môn hóa trên
những loại hàng hóa nào đó và do vậy ( như đã được quan sát
với Cộng Ðồng Châu Âu) trở
thành thương mại trong nội bộ ngành hơn là thương mại giữa các
ngành.
Ðiều cũng có thể là sự hợp nhất sẽ kích thích sự đầu
tư lớn hơn trong những nước thành viên từ cả hai nguồn trong và
ngoài nước. Thí dụ, đầu tư lớn của Mỹ đã xuất hiện ở EC
trong những năm 1960. Những đầu tư có thể dẫn đến từ những
thay đổi về mặt cấu trúc, những nền kinh tế trong và ngoài nước
và sự gia tăng được mong đợi trong thu nhập và nhu cầu. Ðiểm
được tranh luận thêm là sự hợp nhất sẽ kích thích đầu tư
bởi việc làm giảm rủi ro và tính không chắc chắn bởi vì thị
trường về mặt địa lý và kinh tế bây giờ sẽ mở ra cho
những nhà sản xuất. Hơn thế nữa, những nhà đầu tư ước
muốn để đầu tư vào năng lực sản xuất trong một nước thành
viên để tránh bị cô lập từ những nước thành viên bởi
những hạn chế thương mại và một thuế quan bên ngoài chung cao hơn.
Cuối cùng, sự hợp nhất kinh tế tại mức độ thị trường
chung có thể dẫn đến những nguồn lợi động từ sự chuyển
dịch nhân tố được gia tăng. Nếu cả hai vốn và lao động có
khả năng được gia tăng để di chuyển từ những vùng dư thừa
tới những vùng khan hiếm, thì kết qủa sẽ dẫn đến là hiệu
quả kinh tế được gia tăng và những thu nhập nhân tố sẽ cao hơn
tương ứng trong những vùng được hợp nhất.
3.Tóm tắt về sự hợp nhất kinh tế |
Bây giờ chúng ta sẽ tóm tắt một cách ngắn gọn những điều
kiện mà ở đó sự hợp nhất kinh tế có khả năng có những
ảnh hưởng có lợi chung. Nếu mức độ của những thuế quan trước
khi hợp nhất càng cao và mức thuế quan bên ngoài chung càng thấp,
thì ảnh hưởng thực sẽ càng có khả năng dương hơn. Cũng vậy,
cung và cầu càng co giãn trong những nước thành viên, thì những
ảnh hưởng thực càng có khả năng dương hơn. Những ảnh hưởng
thực dương sẽ có khả năng lớn hơn khi số nước tham gia lớn hơn
và qui mô kinh tế của nhóm lớn hơn. Cũng vậy, sự dễ dàng của
sự dịch chuyển từ nguồn trong nước có chi phí cao hơn tới
một nguồn thành viên có chi phí thấp hơn càng lớn và những sự
khác biệt trên chi phí đơn vị trước hợp nhất giữa 2 nguồn càng
lớn cũng như mức độ kinh tế qui mô
và đầu tư nước ngoài càng hấp dẫn, thì cái đạt được
tiềm năng từ sự hợp nhất càng lớn. Cuối cùng, nếu những chi
phí vận chuyển được xem xét thì những nước thành viên có
khoảng cách càng gần nhau, thì sẽ có nhiều khả năng hơn trong
những cái đạt được động và tĩnh từ sự hợp nhất.
Với tất cả những cái có thể đạt được từ sự hợp
nhất dường như là hợp lý để thẩm tra tại sao sự hợp nhất
kinh tế thường bị thất bại. Chúng ta đã tập trung trên những
kết quả kinh tế của sự hợp nhất trong một đất nước đại
diện và đã bỏ qua 2 vấn đề quan trọng. Cái thứ nhất liên
quan đến sự phân phối lợi ích giữa các nước thành viên và cái
thứ hai liên quan đến vấn đề quyền tối cao của dân tộc. Phân
tích tĩnh của chúng ta đã chỉ ra những ảnh hưởng phân phối
nội bộ trên người tiêu dùng và người sản xuất, nhưng nó không
nói gì với chúng ta về sự phân phối lợi ích giữa những nước
thành viên. Vấn đề này đã là một chướng ngại để đạt được
sự hợp nhất kinh tế khi sự hợp nhất kinh tế thường được
quan niệm như là một trò chơi có tổng bằng 0 bởi những thành
viên tiềm năng. Mỗi đất nước muốn đi vào những thị trường
của nước khác, nhưng nó thường không sẵn lòng mở đường cho
những nước khác đi vào. Vướng mắc về
phân phối đã gia tăng bởi sự không sẵn lòng của những nước
riêng rẽ trong việc từ bỏ sự kiểm soát nền kinh tế của họ,
cái được đòi hỏi bởi sự tham gia một kế hoạch hợp nhất
kinh tế.
Ðiều không ngạc nhiên là những kế hoạch hợp nhất kinh
tế đã có một lịch sử không ổn định như là một chiến lược
chính sách kinh tế. Ðiều này đặc biệt đúng trong những nước
đang phát triển, nơi mà những thử nghiệm hợp nhất như là Thị
Trường Chung Ðông Phi đã thất bại. Trong trường hợp của
những nước đang phát triển thì đất nước không chỉ đối phó
với sự phân phối sự phân phối và những vấn đề quyền lực
tối cao dân tộc, nhưng những cái đạt được tiềm năng không
phải luôn luôn hiển nhiên bởi vì những nước thành viên tiềm năng
thường thương mại một ít với nhau và không quá lớn về mặt
kinh tế. Những nền kinh tế tương ứng của chúng đôi lúc tạo
ra những hàng hóa khác nhau (không giống nhau) dành cho những thị
trường của những nước công nghiệp phát triển. Cuối cùng,
những đường cầu và cung trong nước biểu hiện ít co giãn hơn
những đường cầu và cung trong những thị trường giống nhau ở
những nước công nghiệp phát triển. Kết quả là, những cái đạt
được tĩnh không xuất hiện lớn và sự thành công của kế
hoạch hợp nhất kinh tế dựa trên việc thực hiện những cái đạt
được động dẫn đến từ việc đầu tư gia tăng và những ngành
mới ra đời để phục vụ cho những nhóm thị trường lớn hơn.
Dĩ nhiên, điều này dẫn đến những tranh luận về sự xác định
vị trí của những ngành mới và sự phân phối thu nhập của sự
thay đổi cấu trúc giữa những nước thành viên. Do vậy, trong khi
sự hợp nhất kinh tế đưa ra những thuận lợi của những thị
trường lớn hơn và kinh tế qui mô có thể đối với những nước
đang phát triẻn, khả năng để nhận lấy thuận lợi của những
kết quả phát triển động này phụ thuộc vào sự sẵn lòng của
chúng để từ bỏ sự kiểm soát kinh tế quốc gia nào đó và trên
việc giải quyết vấn đề cơ bản về cách phân phối những thu
nhập giữa những nước thành viên.
III. Liên Minh Châu Âu |
1. Lịch sử và Cấu trúc |
Với kiến thức về mặt khái niệm này trong đầu, bây giờ
chúng ta sẽ chuyển tới đơn vị hợp nhất nổi tiếng nhất và
lớn nhất trong nền kinh tế thế giới- Cộng Ðồng Châu Âu (EC)
đã được gọi chính thức từ tháng 11/1993. Ðứng về mặt thể
thức thì việc hình thành tổ chức này đã bắt đầu trong năm
1951 khi Hiệp Ước Paris được ký kết bởi Bỉ, Pháp, Tây Ðức,
Ý, Luxembourg và Hà lan. Hiệp ước này đã thiết lập Cộng đồng
thép và than đá Châu Âu đối với việc điều phối sản xuất,
phân phối và những vấn đề khác dính líu đến hai ngành trong sáu
nước. Kế đó những đất nước này đã phát triển sự hợp tác
của họ nhiều hơn bởi việc ký hai Hiệp Ước Rome trong năm 1957;
một hiệp ước đã thiết lập Cộng Ðồng Kinh Tế Châu Âu (EEC)
và cái kia đã hình thành Uíy Ban Năng Lượng Nguyên Tử Châu Âu
(Euratom) đối với việc nghiên cứu chung, hợp tác và quản lý ngành
đó. Hai hiệp ước đã có hiệu lực vào ngày 1/1/1958 và với
hiệp ước Paris ban đầu đã trở thành hiến pháp của Cộng Ðồng
Châu Âu. Mục tiêu cuối cùng là việc hình thành một thị trường
hợp nhất cho việc di chuyển tự do của những hàng hóa, dịch
vụ, vốn, và con người. Những cái này được biết như là bốn
tự do... EC kế đó đã mở rộng từ 6 đến 12 nước với sự gia
nhập của Ðan mạch, Ireland và Vương Quốc Anh năm 1973, Hy Lạp năm
1981, Thổ Nhĩ Kỳ và Tây Ban Nha năm 1986.
Ðể làm thuận tiện cho việc đạt được mục tiêu lớn này
và để đạt được sự cố kết chính trị lớn hơn, những tổ
chức trên mức quốc gia khác nhau đã được thiết lập. Uíy Ban
Châu Âu, hội đồng điều hành, được tạo ra để thực hiện
những hiệp ước và thực hiện mối quan hệ lãnh đạo chung.
Hội Ðồng Bộ Trưởng là tổ chức tạo ra quyết định cho
những vấn đề chung của cộng đồng. Hội Ðồng Châu Âu bao
gồm những nhà lãnh đạo chính trị của những nước thành viên
sẽ đặt ra những hướng dẫn chính sách lớn. Quốc hội Châu Âu
được bầu ra bởi những cử tri trong những nước thành viên
(với một số ghế được xác định cho mỗi nước) và nó tạo
ra những đề nghị cho Ủy Ban. Cuối cùng, Tòa án sẽ giải thích
hiến pháp và tổ chức tranh cãi.
2. Tăng Trưởng và Thất Vọng. |
Cộng Ðồng Châu Âu được thành lập từ đầu đã loại
bỏ những thuế quan trên thương mại trong nội bộ EC và đã áp
dụng thuế quan bên ngoài chung vào khoảng tháng 7/1968. Thương mại
giữa những nước thành viên đã tăng trưởng nhanh chóng trong
những năm 1960 khi thương mại thế giới tăng trưởng nói chung. Thêm
vào đó, tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm của GNP thực cho
toàn Cộng Ðồng từ năm 1961 đến 1970 là 4,8% và tỷ lệ tăng trưởng
GNP trên đầu người là 4%. So với tỷ lệ tăng trưởng của Mỹ
trong GNP là 3,8% và GNP trên đầu người là 2,5%. Nhiều nước đã
đóng góp vào sự tăng trưởng ban đầu này một cách đáng kinh
ngạc trong bối cảnh của việc thành lập Cộng Ðồng, mặc dù
một số nước đã có những nghi ngờ rằng đây có phải là nguyên
nhân không. Sự tăng trưởng đáng kể cũng đã xảy ra suốt năm
cuối của thập kỷ 60 và đến những năm 1970 với việc thực
hiện những sự cắt giảm thuế quan 35% dưới Bàn Tròn Kennedy.
Thực vậy, sự bắt nguồn của Bàn Tròn Kennedy khó có thể được
nối kết với việc thành lập của EC. Những nhân viên nhà nước
Mỹ quan niệm một Bàn Tròn mới của sự cắt giảm thuế quan như
là cách để đền bù một vài đối xử phân biệt chống lại
những hàng hóa của Mỹ được gây ra bởi việc tháo gỡ những
thuế quan trong những nước EC và việc dựng lên thuế quan bên ngoài
chung. Việc mua bán giữa Mỹ và EC trong Bàn Tròn là yếu tố quan
trọng đến sự thành công của những cuộc thương thuyết.
Một đặc điểm khác của EC - cái mà kích thích Bàn Tròn
Kennedy và cũng có hàm ý thương mại quan trọng đối với nền
kinh tế thế giới - là Chính sách
nông nghiệp chung (CAP) được ứng dụng bởi EC năm 1962. Chính
sách này là một kế hoạch ủng hộ giá cả cho nông nghiệp trong
những nước Châu Âu, kế hoạch này chứa đựng những khoảng
thuế nhập khẩu thay đổi. Ðể đạt được những giá cả nông
nghiệp theo mục tiêu đã xác định, những chính phủ của EC
sẽ mua những khoảng vượt cung của hàng hóa. Ðể một chương trình
như thế thành công, những hàng hóa nhập khẩu đi vào cộng đồng
phải được kiểm soát để không làm giảm giá cả sản phẩm. Thí
dụ, giá cả mục tiêu là 3 đô la trên một giạ lúa mỳ và nếu
một giạ lúa mỳ này của Mỹ bán với giá là 2,5 đô la thì một
thuế quan 0,5 đô la sẽ được đánh trên mỗi giạ lúa mỳ này
của Mỹ bởi EC. Nếu như giá cả lúa mỳ này của Mỹ giảm
xuống còn 2,3 đô la, thì khoảng thuế biến đổi sẽ là 0,7 đô
la để giữ cùng một lượng nhập khẩu trên thị trường của
cộng đồng, một lượng không đổi với sự duy trì của giá cả
ủng hộ cộng đồng. Những hàng hóa được tích lũy trong EC thông
qua kế hoạch hỗ trợ giá thường được bán trên thị trường
thế giới tại một giá cả thấp (một giá trợ cấp). Việc trợ
cấp xuất khẩu này sẽ tạo ra sự va chạm với Mỹ và những nhà
sản xuất ở nước thứ 3 . Trong ngữ cảnh của Bàn Tròn Kennedy,
điều đã được nghĩ là những sự thương thuyết có thể
tạo ra tiến trình hướng tới đưa những hàng hóa nông
nghiệp của Mỹ đi vào thị trờng EC dễ dàng hơn, nhưng có ít
sự tiến triển tạo ra trong việc cắt giảm những hàng rào thương
mại nông nghiệp trong bất kỳ những bàn tròn thương thuyết của
GATT đến cuối năm 1992.
Quá
trình tăng trưởng thành công của EC trong những năm 1960 đã đi đến
những thất vọng trong những năm 1970 và 1980. Cuộc khủng hoảng
dầu hỏa năm 1973-1974 và 1979-1981, đi cùng với những thời kỳ
suy thoái và lạm phát liên tục, đã dẫn đến một sự tăng trưởng
chậm và gia tăng thất nghiệp trong Châu Âu. Tăng trưởng GNP thực
của EC giảm xuống còn 1,4% suốt thời kỳ 1981-1985; Trái lại,
tỷ lệ tăng trưởng GDP thực của Mỹ trong thời kỳ này là 2,3%
và chỉ số này của Nhật gia tăng tới 3,7%. bởi những tỷ lệ tăng
trưởng thấp trong tương đối và tuyệt đối trong EC và những
tỷ lệ thất nghiệp ở Châu Âu cao (đôi lúc trên 10%) nên thuật
ngữ Sự xơ cứng Châu Âu được đặt ra.
3. Hoàn thành thị trường nội địa |
Những thất vọng về mặt kinh tế và sự nhận thức của
một Châu Âu rơi lại phía sau Mỹ
và Nhật đã trở thành một mối quan tâm đối với những thành
viên của Cộng đồng.Một số nước đã suy nghĩ rằng sự tồn
tại tiếp tục của những hàng rào bên trong đối với sự hợp
nhất kinh tế đầy đủ hơn chính nó đã là một sự trì kéo quan
trọng đối với việc thực hiện một Châu Âu tốt hơn. Mặc dù
những thuế quan đã được tháo gỡ vào năm 1968 trên việc thương
mại trong nội bộ EC, nhưng một loạt sự cản trở không thuế
quan đối với thương mại tự do vẫn duy trì. Vì vậy năm 1985 Uíy
Ban Châu Âu đã đưa ra một chính sách hoàn thành thương
mại nội bộ: Sách trắng (tờ báo công khai của chính phủ) từ Uíy
Ban gửi đến Hội Ðồng Châu Âu, qui định những thay đổi để
loại bỏ những hạn chế và cản trở khác nhau này. Những hàng
rào thị trường nội bộ đặc biệt bao gồm:
(i).
Những sự khác nhau trong những qui định về mặt kỹ thuật giữa
những đất nước, cái đưa vào những chi phí phụ thêm trên thương
mại trong nội bộ EC.
(ii).
Những sự trì hoãn tại cửa khẩu với mục đích hải quan và
những cản trở về mặt hành chánh có liên quan đối với những
công ty và việc quản lý chung là những cái đưa vào chi phí thêm
trên thương mại.
(iii).
Những ràng buộc trên việc cạnh tranh đối với việc mua hàng
chung thông qua việc loại bỏ những đề nghị về giá cả từ
những nhà cung cấp Cộng đồng khác, cái thường dẫn đến
những chi phí mua hàng cực kỳ cao.
(iv).
Những hạn chế về sự tự do để tiến hành những thương vụ
dịch vụ nào đó hoặc để được tạo ra những hoạt động
dịch vụ nào đó trong những đất nước cộng đồng khác. Ðiều
này đặc biệt quan tâm đến những dịch vụ vận chuyển và tài
chánh, nơi mà những chi phí của những hàng rào đi vào thị trường
cũng sẽ xuất hiện.
Những thành viên của cộng đồng Châu Âu đã nhận thức
được cái được gọi là hoàn thành việc tháo gỡ những hàng rào
nội bộ, đến tháng 2/1986. Hội đồng
Bộ Trưởng đã áp dụng đạo luật Châu Âu đơn phương để
thực hiện những kiến nghị khác nhau. Ngày được qui định là
tháo gỡ toàn bộ những hạn chế thị trường nội bộ là ngày
31/12/1992- Thuật ngữ EC 92 đã tồn tại để chỉ ra mục tiêu cho
việc hoàn thành sự hợp nhất của công đồng. Có 282 hướng
dẫn khác nhau đã được đưa ra để thực hiện. Tuy nhiên, sự
hợp nhất đã không hoàn thành bởi sự chỉ dẫn; Thí dụ, những
hộ chiếu vẫn bị kiểm tra tại các cửa khẩu, một số cản
trở cho việc linh động vốn tự do vẫn duy trì, những tiêu
chuẩn kỹ thuật công nghiệp được chi tiết quá đã không được
huấn luyện đầy đủ và những thiên hướng dân tộc vẫn tồn
tại trên cái kiếm được của chính phủ. Tuy nhiên, những sự trì
hoãn và những thủ tục quan liêu cũ trên sự di chuyển của hàng
hóa và những khách du lịch đã chấm dứt, và EC 92 đã hoàn thành
nhiều sự thay đổi.
4. Những viễn cảnh. |
Cái gì là những kết quả được mong đợi của sự hợp
nhất kinh tế được gia tăng trong liên minh Châu Âu? Cộng đồng
Châu Âu đã tính toán rằng, GDP hàng năm qua thời kỳ trung hạn
sẽ từ 3,2 đến 5,7% cao hơn so với trước khi hợp nhất. Nhiều
sự gia tăng bắt nguồn từ sự tự do của những dịch vụ tài chánh
và từ những ảnh hưởng về mặt cung. Những ảnh hưởng về
mặt cung phản ảnh tình trạng như là việc thực hiện kinh tế
qui mô, những hiệu quả mang đến lớn hơn bởi sự cạnh tranh cao
hơn giữa những nhà sản xuất và sự gia giảm của những chi phí
trực tiếp bởi những hàng rào kỹ thuật cũ như là sự thiếu
thốn về tiêu chuẩn hóa của những nhập lượng sản phẩm.
Những giá cả trên tiêu dùng được mong đợi từ 4,5 đến 7,7% và
việc làm sẽ gia tăng 1,3 đến 2,3 triệu. Một số người nghĩ
rằng, những ước lượng này quá lạc quan nhưng nếu chúng không
quá lạc quan, thì nỗ lực hợp nhất mới sẽ có khả năng để làm
giảm nhẹ một số khó khăn của một sự xơ cứng của Châu Âu.
Tuy nhiên, tình trạng trong EC trong những năm đầu 1990 đã không
mấy lạc quan. Sự suy thoái toàn cầu năm 1990-1991 đã hút EC vào
sự khó khăn, và sự thực hiện kinh tế nghèo nàn. Dòng tăng trưởng
GDP trong Cộng Ðồng là 1,3% trong năm 1991, 1% trong năm 1992, và- 0,3%
trong năm 1993 và được dự đoán là 1,3% năm 1994. Hơn nữa, tỷ
lệ thất nghiệp đã là 10,3% năm 1992ì được ước tính là 11,3%
năm 1993 và 12% năm 1994. Thêm vào đo,ï vào năm 1993 thị phần của
EC trong thị trường xuất khẩu những hàng hóa sản xuất trên
thế giới đã giảm xuống 20% so với năm 1980. Chỉ ra một hoạt
động cạnh tranh quốc tế yếu đi.
Những
khó khăn về kinh tế đối mặt với những nước thuộc Liên Minh
Châu Âu hiện tại sẽ xảy ra tại thời điểm mà những nước khác
sẽ lập ra kế hoạch hoặc mưu tìm liên kết với tổ chức hợp
nhất. Aïo, Phần Lan, Thụy Ðiển và Nauy đã được chấp thuận là
thành viên bắt đầu từ ngày 1/1/1995 và những nước khác (bao
gồm những nước Ðông Âu) đã xin gia nhập. Thậm chí không là thành
viên, thì những đất nước của Hiệp Hội Thương Mại Tự Do Châu
Âu (ngoại trừ Thụy Sĩ và Liechtenstein) và EU đã thành lập Vùng
Kinh Tế Châu Âu (01/1994) để bao gồm thương mại tự do và những
bước hợp nhất khác. Sự kháng cự việc mở rộng của Liên Minh
Châu Âu đã được công bố trong một số nước thành viên hiện
tại,và câu hỏi đã được tranh luận là tổ chức có nên đi vào
chiều sâu thông qua sự hợp nhất gần gủi hơn của những nước
thành viên đang tồn tại hay là đi theo chiều rộng bởi việc
nhận thêm nhiều thành viên mới.
Nói chung, sự hợp nhất của Châu Âu đã thực hiện một cách
nhanh chóng kể từ khi sự hình thành của nó bởi những hiệp ước
Rome năm 1957. Tuy nhiên,
Liên
minh Châu Âu sẽ đối mặt với vấn đề làm cách nào để làm
sống lại việc thực hiện đồng nhất của nó trong những năm
ban đầu. Cũng vậy, sự hợp nhất gia tăng ở Châu Âu dính líu
nhiều hơn đến vấn đề kinh tế. Có những hàm ý về mặt chính
trị của việc thiết lập những tổ chức siêu quốc gia và của
việc hủy bỏ tính tự trị và quyền dân tộc tối cao bởi
những nước thành viên. Cũng có những chiều hướng về mặt xã
hội và văn hóa đi cùng với tính linh động của vốn và lao động
được gia tăng và 4 sự tự do được công bố khi thành lập
EC .Một chiều hướng kinh tế quan trọng khác bao gồm những
bước đáng chú ý hướng tới sự liên minh tiền tệ, với một
bộ phận của một ngân hàng trung ương Châu Âu mạnh và cuối cùng
đi đến một đồng tiền chung.
IV. Sự không hợp nhất kinh tế ở Ðông Âu và Liên Minh Xô Viết cũ |
Hai sự kiện gần đây với những hàm ý quan trọng đối
với nền kinh tế thế giới là (1) sự dịch chuyển tỏa khắp
bắt đầu từ đầu năm 1990 trong Ðông Âu xa rời chủ nghĩa xã
hội và kế hoạch tập trung và hướng tới Chủ Nghĩa Tư Bản và
thị trường và (2) sự sụp đổ của Liên Minh Xô Viết trở thành
15 nước cộng hòa độc lập vào cuối năm 1991, đi cùng với
việc hủy bỏ kế hoạch tập trung và sự phân phối nguồn lực
của chính phủ hướng tới nền kinh tế thị trường phân quyền.
Nguyên nhân chính xác của sự thay đổi này sẽ được tranh luận
trong thời gian dài và rõ ràng chúng dính líu đến vấn đề chính
trị, xã hội, triết học và tôn giáo cũng như những vấn đề
kinh tế. Tuy nhiên, những tỷ lệ tăng trưởng thấp, những tỷ
lệ hiện đại hóa thấp và sự thay đổi kỹ thuật và tình
trạng kinh tế nghèo nàn nói chung dưới chế độ cũ là những nhân
tố quan trọng.
1.Hội đồng giúp đỡ kinh tế lẫn nhau. |
Trong thương mại với nước ngoài, những nước Ðông Âu và
Liên Bang Xô Viết (với Cuba, Mông Cổ, và Việt Nam) đã hợp nhất
với nhau thông qua Hội đồng tương trợ kinh tế lẫn nhau (CMEA, thường
được gọi là COMECON). Ðây đã là một hình thức khác đáng kể
của sự hợp nhất kinh tế từ những loại hình hợp nhất khác mà
chúng ta đã nghiên cứu trong chương này. CMEA đã bắt đầu hoạt
động vào 1949 để thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa những nước
thành viên. Trong lịch sử của CMEA tổng số phần trăm thương
mại của các nước Ðông Âu với những thành viên khác của CMEA
năm 1989 đều cao, ngoại trừ Romania 1989.Ðối với năm 1990, phần
trăm của tổng số thương mại với nhau trong 15 nước cộng hòa
độc lập của liên bang Xô Viết cũ chỉ ra sự phụ thuộc lẫn
nhau đáng kể giữa chúng. Thêm vào đó, bởi vì khoảng một nửa
của tổng số thương mại của Liên Bang Xô Viết hợp nhất với
những nước Ðông Âu tại thời điểm cuối của CMEA năm 1991, nên
những nước CMEA quả là một cái gì đó độc lập hoặc cách ly
với phần còn lại của nền kinh tế thế giới.
Bảng
1: Phần trăm thương mại nội bộ trong tổng số thương
mại của những nước Ðông Âu và những nước Cộng Hòa Liên
Bang Xô Viết cũ
Thương mại dưới tổ chức CMEA, trong đó USSR
đã cung cấp chủ yếu những nguyên liệu thô cho những nước Ðông
Âu trong việc trao đổi những hàng hóa sản xuất, không phải là
loại hình thương mại tự do giữa những bên tham gia chung của
những tổ chức hợp nhất kinh tế đặc trưng. Mà ở đó, CMEA
sẽ đặt ra những luật lệ cho việc thực hiện những thỏa
hiệp thương mại song phương. Hơn nữa, trong một thỏa hiệp
giữa bất kỳ 2 quốc gia nào, thì cán cân thương mại trong những
nhóm hàng hóa cũng như toàn bộ sẽ được cân bằng giữa 2 đất
nước. Một đồng tiền chung cho việc tính toán những luồng thương
mại chuyển đổi theo đồng Rup được sử dụng. Những giá cả
của hàng hóa được xác định bởi một công thức, trong đó con
số bình quân thị trường thế giới trong thời gian 5 năm được
sử dụng và lúc đó được chuyển đổi sang đồng Rup (đơn vị
tiền tệ của Liên Bang Xô Viết ) tại một tỷ lệ hối đoái chính
thức của CMEA. Tuy nhiên, nó biểu hiện rằng sự can thiệp mua bán
và quan liêu cũng đóng một vai trò. Ðứng về mặt lịch sử,
những nước CMEA đã đề cập đến thương mại đơn giản như là
một phương tiện để đạt được những hàng hóa không sẵn có
ở nước nhà và điều này làm cho những đất nước tương đối
gần gủi nhau hơn. Nó cũng được nghĩ là, những cơ quan lập kế
hoạch trong những đất nước ít quan tâm đến đến bất kỳ
những đặc điểm về thu nhập và chi phí, do vậy những cái đạt
được từ thương mại mở sử dụng lợi thế so sánh đã không
được nhận ra.
2. Hướng tới kinh tế thị trường. |
Ảnh hưởng của sự nhiệt tình với thị trường trên
những luồng thương mại trong những nước Ðông Âu khó để đánh
giá chắc chắn là có một sự không hợp nhất nào đó trong
những nước CMEA cũ và có sự hợp nhất lớn hơn với phần còn
lại của thế giới. Sự hợp nhất này với phần còn lại của
thế giới không chỉ có thể giúp cho những thành viên CMEA cũ, mà
còn có thể mang lại lợi ích cho phúc lợi thế giới nếu như nó
cải tiến việc phân phối nguồn lực của thế giới. Tuy nhiên,
một cản trở quan trọng đối với việc thương mại với phần còn
lại của thế giới đa,î đang và sẽ tiếp tục một sự thiếu
thốn của những đồng tiền chuyển đổi được chấp nhận
chung. Thêm vào đó, việc tư nhân hóa của những xí nghiệp nhà nước
trước đây và việc cấu trúc lại một cách cơ bản của những
nền kinh tế theo chủ nghĩa xã hội sẽ đòi hỏi viện trợ bên
ngoài; Những cuộc bàn luận và thương thuyết về bản chất và
qui mô của sự viện trợ đó đang diễn ra.
Ðiều quan trọng để nhấn mạnh rằng, những nước Ðông
Âu và liên bang Xô Viết cũ đã trãi qua những khó khăn lớn trong
việc chuyển sang nền kinh tế thị trường. Việc bảo đảm việc
làm như đã tồn tại dưới sự phân phối nguồn lực theo kiểu
kế hoạch hóa tập trung đã mất đi, và sự lạm phát sẽ xảy ra
khi những thiếu thốn, cái trước đây biểu hiện dưới hình
thức sắp hàng chờ và những cửa hàng trống không bây giờ chỉ
ra khi giá cả tăng. Thêm vào đó, những vấn đề kinh khủng đang
đối mặt khi những xí nghiệp nhà nước được tư nhân hóa bởi
việc bán cho những công dân trong môi trường thiếu thốn những
thị trường vốn phát triển và một hệ thống ngân hàng hiện đại.
Một chỉ dẫn về một số khó khăn ban đầu trong việc
chuyển sang nền kinh tế thị trường được đưa ra ở bảng 4.
Cột đầu tiên của những con số ở bên trái chỉ ra GDP trên đầu
người. Ba cột kế tiếp chỉ ra những tỷ lệ tăng trưởng của
tổng GDP thường mang dấu âm
và lạm phát cao và thường tỷ lệ thất nghiệp cao xảy ra năm
1992 và đầu năm 1993. Những tỷ lệ này rõ ràng đã gây ra những
khó khăn cho nhân dân và nhà nước của những đất nước này.
(một thí dụ đáng ghi nhận nhất là Tổng Thống Nga Boris Yeltsin
khó khăn trong việc thực hiện đổi mới năm 1993- 1994). Những nhà
kinh tế bảo đảm là có lợi ích trong dài hạn, mặc dầu những
chi phí trong ngắn hạn dường như là một lổ hủng lớn khi tình
trạng kinh tế nghèo nàn sẽ tiếp tục và cái được gọi là
ngắn hạn dường như không bao giờ chấm dứt. Tóm lại, những
sự chuyển đổi đang diễn ra trong nền kinh tế của Ðông Âu và
những nước thuộc Liên Bang Xô Viết cũ sẽ tạo ra một sự
kiện xáo động trong nền kinh tế thế giới, cái mà sẽ tiếp
tục trong nhiều năm. Những sự chuyển đổi này hướng tới nền
kinh tế thị trường có những hàm ý đối với thương mại quốc
tế, phúc lợi và sự ổn định, nhưng thời gian và bản chất
thật sự của hàm ý đó là không chắc chắn hiện nay.
Bảng
2: Những chỉ số kinh tế của những nước Ðông Âu
và những nước Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết cũ
V. Sự hợp nhất kinh tế Bắc Mỹ. |
1. Sự hợp nhất lớn hơn |
Một
sự dịch chuyển rộng lớn đến sự hợp nhất kinh tế đã xảy
ra khi thỏa hiệp thương mại tự do giữa Mỹ và Canada được
thực hiện vào ngày 1/1/1989. Nó đưa ra sự loại bỏ tất cả
những thuế quan giữa hai bên hoặc là ngay tức khắc hoặc là
những bước loại bỏ từng năm một trong 5 hay 10 năm và nó sẽ
được thực hiện hoàn toàn vào ngày 1/1/1999. Ðã có những ước
lượng khác nhau về ảnh hưởng tiềm năng của thỏa hiệp này
giữa 2 đất nước, là những thành viên thương mại lớn nhất
với nhau. Trong những con số %. Canada sẽ có lợi hơn Mỹ. Ðiều
được ước lượng là FTA sẽ nâng GDP thực hàng năm của Canada lên
khoảng 2,5 đến 5%. Những con số này tương đối lớn bởi vì
những ảnh hưởng động của kinh tế qui mô và sự hấp dẫn
của đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra những cái đạt được quan
trọng trong hiệu quả sản xuất của Canada...Những ước lượng
cho Mỹ thì không cao bằng; Một ước lượng đặt một sự gia tăng
trong GDP là 1% hàng năm, với việc tạo ra 750.000 việc làm và
tiết kiệm tiêu dùng khoảng 1- 3,5 tỷ đô la mỗi năm. Tuy nhiên,
những người chỉ trích hiệp ước này đã chỉ ra rằng, vào năm
1992 những việc làm chế tạo ở Canada đã biến mất bởi việc
thực hiện hiệp ước và rằng một số công ty của Canada đã đóng
cửa hoặc chuyển tới Mỹ.
Ðã hướng tới thương mại tự do theo vùng lớn hơn đã
tiếp tục sớm sau khi có thỏa hiệp giữa Mỹ và Canada. Những ban
ngành điều hành của chính phủ Canada, Mexico và Mỹ đã ký hiệp
ước thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) vào tháng 8/1992, cái tạo
ra vùng thương mại tự do với một tổng GDP là 7 tỷ đô la và trên
360 triệu người tiêu dùng so với tổng GDP và tổng dân cư của vùng
kinh tế Châu Âu là 7,5 tỷ đô la và 372 triệu dân. Nói chung thương
mại tự do xảy ra trong vòng 15 năm, nhưng một số lĩnh vực (như
ô tô) có thương mại tự do trong vòng một thời gian ngắn hơn.
NAFTA cũng đã đề nghị giảm bớt những hạn chế đầu tư cũng
như những hạn chế thương mại, thí dụ nó cung cấp con đường
đầu tư ngay vào ngành hóa dầu, cho phép những ngân hàng và xí
nghiệp của Mỹ thiết lập những công ty con sở hữu hoàn toàn
ở Mexico vào năm 2000 và tháo gỡ toàn bộ những hạn chế trên
quyền sở hữu chứng khoán trong
những công ty bảo hiểm vào năm 2000. Thêm vào đó, Canada, Mexico và
Mỹ sẽ mở rộng đối sách quốc gia trong những dịch vụ với
nhau. Có nghĩa là những công ty dịch vụ thuộc sở hữu nước ngoài
sẽ được đối xử giống như những công ty trong nước. Nông
nghiệp cũng là một phần quan trọng của hiệp ước. NAFTA có
thể là hiệp ước theo vùng đầu tiên giữa những đất nước
với những mức độ thu nhập biến đổi như thế và một đặc
điểm quan trọng của hiệp ước là sự phát triển được đoán
trước, cái mà có thể đưa ra một sự tăng trưởng mạnh mà
Mexico đã nhận được bởi việc thực hiện những đổi mới về
cấu trúc và định hướng thị trường trong giữa những năm 1980.
2. Những lo lắng trên NAFTA. |
Ảnh hưởng của NAFTA trên 3 nền kinh tế của những nước
tham gia đã được tranh luận rất mãnh liệt và đã có những ước
lượng rất khác nhau về những ảnh hưởng. Một nghiên cứu của
Ủy Ban Thương Mại Quốc Tế của Mỹ (US-ITC) đã kết luận
rằng, NAFTA có thể làm cho GDP thực của Mexico gia tăng trong
khoảng từ 0,1đến 11,4% (một khoảng rộng!), trong khi GDP thực
của Cannada và Mỹ mỗi nước chỉ gia tăng khoảng dưới 0,5%.
Drusilla Brown (1992) đã khảo sát những ước lượng của những mô
hình khác nhau. Những mô hình này đã đưa thu nhập qui mô gia tăng
vào trong ước lượng. NAFTA có thể làm tăng GNP của Canada trong
khoảng từ 0,7 đến 6,75% và của Mexico từ 1,6 đến 5% và của
Mỹ từ 0,5 đến 2,55% .
Những ước lượng về những ảnh hưởng việc làm cũng khác
nhau. Một nghiên cứu của Gary Clyde Hufbauer và Jeffrey
J. Schott (1992) đã ước lượng rằng, NAFTA có thể tạo ra
609.000 việc làm ở Mexico và 130.000 việc làm ở Mỹ. Mickey
Kantor đã tiên đoán rằng, Mỹ có thể đạt được 200.000
việc làm công nghiệp vào năm 1995. Tuy nhiên, mặc dầu những tiên
đoán bi quan nhất đối với Mỹ là mất mát 500.000 việc làm, nhưng
Ross Perot, ứng cử viên tổng
thống, đã tạo ra một sự khuấy động trong năm 1993 bởi việc nói
rằng hầu hết 6 triệu việc làm ở Mỹ có thể gặp rủi ro. Tuy
nhiên, nếu NAFTA kích thích sự tăng trưởng của Mexico, thì có
thể có những cơ hội việc làm lớn hơn ở Mexico và sẽ có ít hơn
sự di chuyển lao động của Mexico đến Mỹ và có thêm việc làm
cho những công nhân Mỹ ở nước nhà. Một lý do cho những ước lượng
việc làm khác nhau lớn là những ảnh hưởng tiềm năng của NAFTA
Trên những luồng đầu tư nước ngoài từ Mỹ đến Mexico
rất không chắc chắn. Những xí nghiệp của Mỹ đã đầu tư
một cách mạnh mẽ vào Mexico trong quá khứ
(tình huống 4) và nhiều người thấy NAFTA như là công cụ kích
thích đầu tư nước ngoài thêm bởi tiền lương thấp hơn ở
Mexico. Thêm vào đó, hiệp ước đã cung cấp những động lực khác
nhau cho những xí nghiệp Mỹ đầu tư vào Mexico. Tuy nhiên, những
sự dịch chuyển hàng hóa và các nhân tố sản xuất có thể thay
thế lẫn nhau, nếu như vậy thì với thương mại tự do và những
yếu tố khác như nhau thì đứng về mặt lý thuyết những luồng
đầu tư của Mỹ có thể giảm.
Qui mô chính xác của những ảnh hưởng khác của NAFTA cũng
đang bị nghi vấn, những ảnh hưởng nào đó sẽ được đoán trước.
Ðiều được mong đợi là sẽ có những ảnh hưởng trên ngành
trong thương mại giữa Mỹ và Mexico, với những ngành như hóa
chất, nhựa tổng hợp, máy móc và kim loại thì Mỹ như là người
thắng cuộc xuất khẩu, trong khi những ngành thay thế nhập khẩu
của Mỹ như là trái cây họ cam, quýt, đường, quần áo và đồ
dùng gia đình sẽ bị tổn thương. Thặng dư thương mại của Mỹ
đối với Mexico nói chung được mong đợi sẽ trở nên lớn hơn,
đặc biệt nếu NAFTA kích thích GDP của Mexico và do vậy khả năng
của Mexico mua hàng hóa của Mỹ cũng sẽ gia tăng. Một ảnh hưởng
không chắc chắn khác là những ảnh hưởng tiềm năng trên tiền
lương. Trong khi USITC đã ước lượng một ảnh hưởng dương trên
tiền lương trong tất cả 3 đất nước ( 0,7- 16,2% đối với
Mexico, < 0,5% ở Canada và < 0,3% ở Mỹ ).
Có
một quan tâm đáng kể là những tiền lương thấp hơn ở Mỹ có
thể xảy ra .Không có những ảnh hưởng động như là sự tăng trưởng
kinh tế nhanh hơn và sự thay đổi kỹ thuật thì dĩ nhiên theo lý
thuyết cân bằng giá cả nhân tố sẽ dẫn chúng ta đến mong đợi,
sự thu hẹp khác biệt trong tiền lương nói chung (tiền lương
giảm trong nước khan hiếm lao động, tiền lương tăng trong nước
dư thừa lao động). Tuy nhiên, quá trình có thể phức tạp hơn khi
có 3 đất nước dính líu đến hơn là hai.
Một mục tiêu nổi bật của NAFTA là nó quan tâm không đầy
đủ đến sự thiệt hại về môi trường có thể xảy ra khi sản
xuất gia tăng ở Mexico với những tiêu chuẩn về môi trường
thấp hơn so với ở Mỹ hoặc Canada. Tuy nhiên, không có sự nhất
trí trên điểm này; một vài nghiên cứu đưa ra rằng, những ảnh
hưởng ngoại biên trái cực về môi trường có thể là thấp hơn
dưới NAFTA so với một sự tiếp tục của những thỏa hiệp thương
mại tiền NAFTA. Những mục tiêu khác đã xảy ra trên những tiêu
chuẩn lao động thấp hơn ở Mexico (thí dụ, như những luật an toàn
nơi làm việc ít bị ràng buộc hơn) và những khả năng của sự
gia tăng nhập khẩu lớn khi hiệp ước được thực hiện. Kết
quả của những mục tiêu này là thương thuyết của những thỏa
thuận về những tiêu chuẩn về môi trường và lao động và sự
gia tăng nhập khẩu năm 1993.Những nước Châu Mỹ La Tinh khác lo
ngại sự trệch hướng thương mại (trong nhập khẩu của Mỹ về
quần áo chẳng hạn) cũng đã được đưa ra đối với NAFTA.
Sau khi tranh luận sôi nổi, NAFTA đã được chấp nhận bởi
tất cả 3 nước vào cuối năm 1993. Sự chuyển đổi ở Mỹ đã
được hoàn thành chỉ sau khi chính phủ Clinton áp dụng những áp
lực nặng nề lên Quốc Hội, tổ chức hợp nhất mới đã hình
thành vào 1/1/1994.
TÌNH
HUỐNG : SỰ TẠO RA THƯƠNG MẠI VÀ SỰ TRỆCH HƯỚNG THƯƠNG
MẠI TRONG CỘNG ÐỒNG CHÂU ÂU
Đã có những nỗ lực lớn để ước lượng sự tạo ra thương
mại và sự trệch hướng thương mại trong thế giới thực. Thực
sự, tất cả đã dựa trên cộng đồng Châu Âu hoặc là (thị trường
chung Châu Âu) như đã được gọi. Khó khăn để tạo ra những ước
lượng bởi vì những nhà nghiên cứu so sánh những luồng thương
mại thật sự với những luồng thương mại đứng về mặt lý
thuyết đã tồn tại không có sự hợp nhất.
Bela Balassa là người lãnh đạo trong việc tạo ra những ước
lượng về sự tạo ra và trệch hướng thương mại. Cách tiếp
cận của ông ta (Balassa 1974) sử dụng khái niệm độ co giãn thu
nhập quá khứ của nhu cầu nhập khẩu (YEM) - sự thay đổi % bình
quân hàng năm trong những hàng hóa nhập khẩu được quan sát chia
cho sự thay đổi % bình quân hàng năm trong GNP được quan sát,
với cả 2 sự thay đổi được đánh giá tại những giá cả không
đổi (có nghĩa là có điều chỉnh lạm phát.) Ðối với Balassa,
sau khi hợp nhất xảy ra thì (a) một sự gia tăng trong YEM đối
với những hàng hóa nhập khẩu từ những nước tham gia (những hàng
hóa nhập khẩu trong nội bộ vùng) được biểu hiện như là
tổng sự tạo ra thương mại hoặc những hàng hóa nhập khẩu được
gia tăng từ những nước tham gia thì thương mại mới này sẽ
biểu hiện cho sự thay thay thế sản xuất trong nước hoặc là
biểu hiện cho sự thay thế sản xuất của thế giới bên ngoài;
(b) sự trệch hướng thương mại được chỉ ra bởi một sự gia
giảm trong YEM đối với những hàng hóa nhập khẩu từ thế giới
bên ngoài (những hàng hóa nhập khẩu ngoài vùng); và (c) sự tạo
ra thương mại chính xác được chỉ ra bởi một sự gia tăng trong
YEM đối với những hàng hóa nhập khẩu từ tất cả các nguồn
(những nước tham gia và thế giới bên ngoài). Một sự gia tăng
trong YEM sau cùng đưa ra rằng, sự hình thành của tổ chức hợp
nhất đã tạo cho EC chấp nhận hàng hóa nhập khẩu nhiều hơn nói
chung, có nghĩa là có một sự gia giảm tương đối trong sản
xuất trong nước. Dưới việc sử dụng của tất cả ba YEM là
một giả thuyết quan trọng, cái mà YEM có thể duy trì không đổi
nếu như sự hình thành tổ chức hợp nhất kinh tế không xảy ra.
Bảng 1 trình bày những kết quả của Balassa so sánh
những YEM trước khi EC hoạt động (1953-1959) với những YEM
của thập kỹ đầu tiên của EC (1959.1970). Rõ ràng là có tổng
sự tạo ra thương mại chung đáng kể, bởi vì YEM đối với
những hàng hóa nhập khẩu trong nội bộ vùng đã gia tăng từ 2,4
đến 2,7.Ðiều này có nghĩa là, trước khi hợp nhất mỗi 1% gia tăng
trong GNP sẽ tạo ra một sự gia tăng của 2,4% trong hàng hóa nhập
khẩu nội bộ vùng, nhưng sau khi hợp nhất, mỗi 1% gia tăng trong
GNP đã tạo ra một sự gia tăng của 2,7% trong những hàng hóa
nhập khẩu này. Những sự gia tăng đáng kể trong YEM này đã xảy
ra trong những nhiên liệu (từ 1,1 đến 1,6, một sự gia tăng gần
50%) hóa chất,máy móc và những thiết bị vận chuyển (tất cả
gia tăng khoảng 20%). Không có sự trệch hướng thương mại chung nào
bởi vì tổng số YEM đối với những hàng hóa nhập khẩu ngoài vùng
duy trì tại 1,6.Tuy nhiên, sự trệch hướng đã xảy ra trong lương
thực không phải nhiệt đới, nước giải khát, thuốc lá, hóa
chất và những hàng hóa chế tạo khác. Sự gia giảm trong lương
thực không phải nhiệt đới, nước giải khác và thuốc lá đã
phản ánh việc áp dụng những hạn chế nhập khẩu đối với
thế giới bên ngoài trong sự nối kết với chính sách nông
nghiệp chung của EC. Cuối cùng việc tạo ra thương mại nói chung
chính xác khoảng 10% đã xuất hiện bởi vì một sự gia tăng trong
YEM đối với tổng hàng hóa nhập khẩu từ 1,8 đến 2,0. Những
sự gia tăng chủ yếu đã xảy ra trong nhiên liệu, máy móc và
những thiết bị vận chuyển.
Ðiều nên được chỉ ra là những ước lượng này dính líu
đến nhiều hơn những ảnh hưởng tĩnh đã được thảo luận.
Những đo lường trong bảng này có thể di chuyển theo những hướng
không mong đợi (như là một sự gia tăng trong YEM đối với những
hàng hóa nhập khẩu trong nội bộ vùng) bởi những ảnh hưởng động
như là sự tăng trưởng kinh tế được gia tăng và những thay đổi
trong sở thích hoặc bởi vì sự thất bại để cho phép đối
với một sự thay đổi trong những YEM, những cái có thể xảy ra
thậm chí không có sự hợp nhất. Cuối cùng, những ước lượng
này không giải thích một cách trực tiếp về những ảnh hưởng
phúc lợi của việc hình thành EC. Tuy nhiên, chúng đưa ra một cách
mạnh mẽ là phucï lợi đã gia tăng trong EC với sự hợp nhất
kinh tế.
Bảng
1: Ðộ co giãn thu nhập quá khứ của nhu cầu nhập
khẩu (YEMs). Cộng đồng Châu Âu, 1953-1959 và1959-1970.
Chương này đã xem xét lý
thuyết phía sau sự hình thành những loại hình khác nhau của
những dự án hợp nhất kinh tế. Khi một chính sách thương mại
phân biệt của loại này được giới thiệu, thì thương mại sẽ
được tạo ra thông qua việc thay thế của những nhà sản xuất
trong nước có chi phí cao bởi những nhà cung cấp thành viên có
chi phí thấp hơn. Việc tạo ra thương mại có thể làm nâng cao phúc
lợi. Tuy nhiên, sự trệch hướng thương mại thông qua việc thay
thế của nguồn cung của thế giới bên ngoài có chi phí thấp cũng
có thể xảy ra và điều nầy có thể làm giảm phúc lợi. Bất
kỳ kết luận nào trên việc phúc lợi sẽ gia tăng hay giảm
xuống phải được dựa trên một phân tích của mỗi sự hình thành
liên kết cụ thể. Khi những ảnh hưởng động như là việc
thực hiện kinh tế qui mô và những luồng kỹ thuật cũng như đầu
tư được gia tăng sẽ được xem xét, điều được giả định có
thể là những thành viên sẽ đạt được từ hiệp hội và thế
giới bên ngoài cũng có thể đạt được. Chương này cũng đưa ra
sự quan tâm đối với Liên Minh Châu Âu, trước kia là Cộng Ðồng
Châu Âu- Một dự án thị trường đơn lẻ, cái đã gây ra sự kích
động trong và ngoài Châu Âu và đã có những kết quả quan trọng
đối với thương mại quốc tế. Một dự án khác, CMFA, đã tan rã.
Tuy nhiên,sự tan rã này có thể mang đến phúc lợi được gia tăng
khi những sự đổi mới thị trường và sự hợp nhất chặt chẽ
hơn của Ðông Âu và những nước Cộng Hòa của Liên Bang Xô
Viết cũ với những đất nước khác xảy ra. Cuối cùng sự hợp
nhất kinh tế quan trọng đang xảy ra ở Bắc Mỹ với việc thực
hiện NAFTA, giữa Canada, Mexico và Mỹ.
Một điều đáng chú ý nên
được xem xét là suy nghĩ giữa những nhà kinh tế rằng sự liên
kết kinh tế giữa những nhóm nước theo vùng đứng về mặt kinh
tế không thể như là một sự lựa chọn đối với việc giảm
xuống của tính không phân biệt trong những hàng rào thương mại
trên khắp thế giới. Nói cách khác, thế giới có thể hướng
tới những khối nước và tách rời việc hợp nhất toàn cầu.
Những sự va chạm và sự căng thẳng về mặt chính trị cũng có
thể dẫn đến từ những chính sách phân biệt hiện tại. Sự
bất đồng mạnh mẽ suốt vòng đàm phán thương mại Uruguay góp
phần tin tưởng đến quan điểm bi quan này, mặc dầu sự thành công
nào đó thực sự đã đạt được trong vòng đàm phán Uruguay.