Chương 3
CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG
II. PHÂN TÍCH VÀ THUẾ QUAN TRONG CÂN BẰNG CHUNG
III.CÁC CÔNG CỤ KHÁC CỦA CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG
Chương
3
CÁC
CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH
NGOẠI THƯƠNG
Thuế
quan là một khoản tiền mà người chủ hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh
phải nộp cho hải quan là cơ quan đại
diện cho nước chủ nhà.
Kết quả của thuế quan là làm tăng chi phí của việc đưa hàng hóa đến một nước.
-
Các loại thuế theo số lượng được
coi như là một số tiền nhất định đánh
vào từng đơn vị hàng nhập khẩu (Ví
dụ: 3 USD cho mỗi thùng
dầu)
-
Thuế theo giá trị là loại thuế
được tính bằng một tỷ lệ
nhất định đánh vào giá trị hàng nhập
khẩu (Ví dụ: thuế quan nhập khẩu xe tải
của Mỹ là 25% đánh vào giá trị xe tải).
Có
nhiều cách tính thuế, thông
thường thuế tính theo giá trị thường
được sử dụng v́ dễ áp dụng trong cách
tính và cả quản lư. Tuy nhiên, để thực
hiện các chính sách ngoại thương của Chính
phủ, trong tính thuế c̣n phối hợp nhiều cách,
trong đó có cách tính theo mức giá
đối đa và tối thiểu, theo giá hóa đơn...
để phân biệt các mức thuế khác nhau tùy vào
nguồn hàng nhập khẩu hay để tránh gian lận
thương mại.
Ở
nước ta, cách tính thuế là căn cứ vào số lượng
từng mặt hàng thực tế nhân với giá
tính thuế, nhân với thuế suất của từng
mặt hàng ghi trong biểu thuế. Giá tính thuế
nhập khẩu là giá CIF.
Trong
giao dịch thương mại quốc tế hiện nay,
để định giá trị hàng hóa tính thuế quan, các
nước thường áp dụng theo “qui tắc định
giá thuế quan” theo Hiệp định về thực
hiện điều VII của Hiệp định chung
về thuế quan và thương mại 1994 (GATT 1994).
Có thể chọn một trong 6 cách xác định giá
trị tính thuế được qui định từ
điều 1 đến điều 7 của Hiệp định,
các cách tính này đều
tôn trọng một quy luật duy nhất là “giá trị
giao dịch của hàng hóa” và “đúng sự
thực”. Cũng cần lưu ư rằng, điều 7
của Hiệp định qui định, “trị giá
thuế quan tối thiểu” không được dùng làm
cơ sở để xác định giá trị tính
thuế, trong khi, cách tính này, c̣n một vài nước ngoài
WTO áp dụng.
Thuế
quan có các vai tṛ như điều tiết xuất khẩu
và nhập khẩu; bảo hộ hàng nội địa; tăng
thu cho ngân sách nhà nước và là công cụ phân biệt
đối xử trong quan hệ thương mại và gây
áp lực đối với bạn hàng phải nhượng
bộ trong đàm phán.
Giảm
thuế quan lại là biện pháp quan trọng để xây
dựng và thực hiện thành công các liên minh kinh tế.
Ví dụ để xây dựng ASEAN thành khu vực mậu
dịch tự do (AFTA) th́ công việc chính yếu mà các nước
thành viên phải thực hiện đó là chương tŕnh
cắt giảm thuế quan có hiệu lực chung CEPT.
V́
sao xu thế thương mại tự do luôn đi kèm
với khái niệm giảm hoặc xóa hàng rào thuế
quan? Xóa bỏ hàng rào
thuế quan là xóa bỏ sự cách biệt về giá
cả giữa giá hàng hóa Trong nước và Nước
ngoài và cân bằng ở mức giá cả hàng hóa thế
giới.
Theo
cách nh́n nhận của các nhà xuất nhập khẩu hàng
hóa, thuế quan chỉ là một loại chi phí vận
chuyển. Nếu như Trong nước đánh thuế
100USD vào mỗi tấn đường nhập khẩu, các
nhà nhập khẩu sẽ không sẵn sàng vận
chuyển đường từ Nước ngoài vào
trừ khi chênh lệch giá
đường mỗi tấn giữa hai thị trường
ít nhất là 100USD.
Dựa
vào giả thiết đă phân tích đường cầu
nhập khẩu, đường cung xuất khẩu
ở mục V chương 2, trong phần này, chúng ta
lại tiếp tục phân tích khi Trong nước và Nước
ngoài buôn bán với nhau và Trong nước áp đặt
mức thuế quan theo số lượng t vào một
tấn đường nhập khẩu.
Biểu đồ 3.1 minh họa các tác
động của một loại thuế quan đánh theo
số lượng với mức t đồng đối
với mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu. Khi
không có thuế, giá đường Trong nước và Nước
ngoài sẽ cân bằng ở mức giá PW. Tuy vậy, khi có
thuế quan, các nhà vận chuyển sẽ không muốn
vận chuyển đường từ Nước ngoài vào
Trong nước trừ khi giá đường Trong nước
vượt quá giá Nước ngoài ít nhất t đồng.
Trường hợp Trong nước là một “nước
lớn”, nghĩa là, lượng đường mà Trong nước
nhập đủ lớn để có thể tác động
đến giá đường của thế giới, khi
Trong nước áp đặt thuế quan t, giá đường
Trong nước sẽ tăng và giá đường Nước
ngoài sẽ giảm cho đến khi có sự khác nhau
về giá là t đồng. Việc ban hành thuế quan
sẽ tạo ra một cái đệm ngăn cách các
mức giá trên hai thị
trường. Thuế quan làm tăng mức giá Trong nước
lên PT và hạ giá Nước ngoài xuống PT* = PT
- t. Ở Trong nước, khi giá cao hơn, các nhà sản
xuất sẽ cung ứng nhiều hơn, trong khi người
tiêu dùng có nhu cầu ít hơn, nên lượng cầu
nhập khẩu sẽ giảm đi. Ở Nước ngoài,
giá thấp hơn sẽ đưa đến t́nh trạng
giảm cung và tăng cầu, do đó làm giảm mức
cung xuất khẩu. V́ vậy, khối lượng
đường giao dịch sẽ giảm từ QW khối
lượng buôn bán tự do, xuống QT , khối lượng
khi có thuế quan. Ở khối lượng trao đổi
QT, lượng cầu nhập khẩu ở Trong nước
bằng lượng cung xuất khẩu của Nước
ngoài khi PT- PT* = t.
Mức tăng giá Trong nước
từ PW lên PT ít hơn mức thuế, bởi v́ một
phần của thuế được thể hiện qua
sự giảm giá hàng xuất khẩu của Nước
ngoài mà không được chuyển sang cho người tiêu
dùng Trong nước. Đây là kết quả thường
t́nh của thuế quan và bất kỳ
chính sách ngoại thương nào dùng để
hạn chế nhập khẩu.
Tuy nhiên, khi một “nước
nhỏ” (nước có lượng hàng hóa nhập
khẩu ít, không làm ảnh hưởng giá hàng hóa thế
giới) đưa ra một loại thuế, phần hàng
nhập khẩu của nước này trên thị trường
thế giới thường nhỏ, v́ vậy, lượng
hàng nhập khẩu giảm ở đây sẽ có ảnh
hưởng rất nhỏ đối với giá thế
giới. Nói một cách khác, thuế quan của một nước
nhỏ không thể làm giảm giá ở nước ngoài
của hàng hóa mà nước đó nhập khẩu mà
chỉ làm tăng giá hàng hóa Trong nước từ PW lên
PW + t , với t đúng
bằng toàn bộ mức thuế.
Với chính sách khuyến khích xuất
khẩu, mức thuế hiện nay cho các mặt hàng
xuất khẩu của nước ta rất thấp, đa
số bằng 0, trừ
một số mặt hàng đặc biệt như gỗ,
niken, nhôm phế liệu...có mức thuế suất cao.
Đối với mức thuế nhập khẩu cũng
đang được cắt giảm dần phù hợp
với các cam kết của chính phủ ta với nước
ngoài. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực,
mức thuế nhập khẩu hiện nay của nước
ta ở mức khá cao và có tác dụng bảo hộ các ngành
sản xuất trong nước.
Thông qua biểu thuế quan nhập
khẩu, các doanh nghiệp có thể tính toán mức
bảo hộ thực của chính phủ đối
với từng mặt hàng sản xuất trong nước,
từ đó có thể cân nhắc để đầu tư
sản xuất ngành hàng nào, sản phẩm thô hay chế
biến, sản xuất linh kiện, hay nhập linh
kiện, lắp ráp trong nước hay nhập thành
phẩm... .
Giả định chi phí vận
chuyển và các chi phí khác bằng không, hàng hóa nhập
khẩu sau khí có thuế quan sẽ tăng lên đúng
bằng giá ban đầu cộng với số thuế quan
phải nộp, hệ
số bảo hộ hữu
hiệu sẽ được tính như sau:
Kư hiệu: VAC : giá trị gia tăng
của hàng hóa sản xuất trong nước sau khi có
thuế quan
VAC = Giá bán của hàng hóa trong nước
sau khi có thuế quan - Chi
phí nguyên vật liệu cấu thành hàng hóa trong nước
sau khi có thuế quan
VAW: giá trị gia tăng của hàng hóa
sản xuất của thế giới
VAW= Giá bán của hàng hóa trên thế
giới -
Chi phí nguyên vật liệu cấu thành hàng hóa
của thế giới
Ta có: (1)
Nếu gọi :
pwa là giá thành
phẩm hàng hóa X của thế giới
pwc là giá nguyên
liệu hàng hóa X của thế giới
ta là
thuế quan nhập khẩu hàng hóa X ( thuế quan danh nghĩa)
tc thuế
quan nhập khẩu nguyên liệu
hàng hóa X
Ta có: (2)
Thêm ± pwcta vào phần
tử số của công thức (2), ta có công thức (3) như
sau:
Từ công thức (3), ta
có thể đánh giá mối tương quan giữa tỷ
lệ bảo hộ hữu hiệu với thuế quan danh
nghĩa ta như sau:
Trường hợp không
nhập nguyên liệu, nhà sản xuất sử dụng
nguyên liệu trong nước, pwc sẽ không có, tỷ
lệ bảo hộ hữu hiệu đúng bằng
thuế quan danh nghĩa.
Khi ta = tc , tỷ lệ
bảo hộ hữu hiệu đúng bằng thuế quan
danh nghĩa.
Khi tc = 0 , tức không
đánh thuế vào nguyên liệu nhập, nhà sản
xuất có lợi nhất do lúc này tỷ số bảo
hộ hữu hiệu cao nhất.
Khi tc > ta , tỷ lệ bảo hộ
hữu hiệu nhỏ hơn mức thuế quan danh nghĩa.
Khi tc = (pwata/pwc) , tỷ lệ bảo hộ
hữu hiệu sẽ bằng 0.
Khi tc > (pwata/pwc) , tức thuế quan đánh vào
nguyên liệu cao hơn cả thuế quan danh nghĩa,
nghĩa là chi phí nguyên liệu đă cao hơn giá bán
sản phẩm, tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu
sẽ là một con số âm.
Ư nghĩa của ERP:
Giả định
rằng, một chiếc ô tô bán ra trên thị trường
thế giới với giá PWa = 8.000 USD các bộ phận
cấu thành nên chiếc ô tô đó bán với giá PWc =
6.000 USD . Để khuyến khích ngành lắp ráp ô tô trong
nước, chính phủ áp dụng mức thuế nhập
khẩu ô tô nguyên chiếc là ta = 25% và tc = 0%.
Như vậy, trước
khi có thuế nhập khẩu, ngành lắp ráp trong nước
chỉ có thể tồn tại với chi phí lắp ráp
£ 2.000 USD = 8.000 USD - 6.000 USD.
Khi có thuế nhập
khẩu, ngành lắp ráp trong nước vẫn có thể
tồn tại ngay khi chi phí lắp ráp lên đến 4.000
USD = (8.000USD+ 8.000USD*25%) - 6.000USD
Như vậy, với
một tỷ lệ thuế nhập khẩu ô tô nguyên
chiếc là 25% đă cung cấp cho nhà lắp ráp trong nước
một tỷ lệ bảo hộ có hiệu quả là:
Theo phân tích ở
biểu đồ 3.1, đối với một “nước
lớn”, thuế quan làm tăng giá của hàng hóa ở nước
nhập khẩu và làm giảm giá ở nước
xuất khẩu. Do sự thay đổi về giá này, người
tiêu dùng ở nước nhập khẩu sẽ bị
thiệt và người tiêu dùng ở nước xuất
khẩu sẽ có lợi. Các nhà sản xuất được
lợi tại nước nhập khẩu và bị
thiệt ở nước xuất khẩu. Thêm vào đó,
chính phủ ban hành thuế sẽ có thu nhập. Để
so sánh chi phí và lợi ích chúng
ta sẽ phân tích tiếp ở đồ thị 3.2 dưới
đây, với giả định Trong nước là
một “nước lớn”. Phương pháp để
đo lường chi phí và lợi ích của một
loại thuế quan sẽ phụ thuộc vào hai khái
niệm được dùng trong phân tích kinh tế vi mô là
“thặng dư tiêu dùng” và “thặng
dư sản xuất”.
Biểu
đồ 3.2 Chi phí và lợi ích của một
loại thuế quan đối với nước
nhập khẩu.
Trong biểu đồ
3.2, thuế quan nâng giá Trong nước từ PW lên PT và làm
giảm giá Nước ngoài từ
PW xuống PT*, sản xuất Trong nước tăng
từ S1 lên S2 , trong khi tiêu thụ Trong nước
giảm từ D1 xuống D2. Chi phí và
lợi ích đối với các đối tượng khác
nhau như nhà sản xuất, người tiêu dùng, chính
phủ.... có thể thể hiện bằng tổng các
diện tích của năm vùng, được gọi là a,
b, c, d, e.
Trước hết, hăy
xem xét cái lợi đối với các nhà sản xuất
trong nước. Họ nhận giá cao hơn v́ vậy có
thặng dư sản xuất lớn hơn.
Khoảng diện tích được kư hiệu
bằng miền a nằm phía trên đường cung,
giữa mức giá PT và PW là khoảng lợi ích mà nhà
sản xuất có được.
Người tiêu dùng trong
nước phải đối diện với mức giá
cao hơn, v́ vậy sẽ bị thiệt. Thua thiệt
của người tiêu dùng trong nước
được thể hiện bằng tổng
diện tích miền a + b + c + d được thể
hiện trong đồ thị 3.2, đó là khoảng
diện tích nằm dưới đường cầu, trên
mức giá PW và dưới mức giá PT.
Chính phủ được
lợi từ việc thu thuế nhập khẩu. Doanh thu
thuế bằng tỷ lệ thuế quan t nhân với
số lượng nhập khẩu QT, với QT= D2
- S2. Do t = PT -
PT* , thu nhập của chính phủ tương
ứng với tổng diện tích của miền c và e.
Do những cái lợi và
mất mát này được phân bổ vào những người
khác nhau, để đo lường tác động ṛng
của một loại thuế đối với phúc
lợi quốc gia ta có thể giả
định rằng, giá trị lợi ích hay tổn
thất đối với mỗi nhóm cũng là giá trị
của xă hội.
Như vậy, chi phí ṛng
của một loại thuế quan bằng:
Tổn thất của người
mua - Nguồn
lợi của người sản xuất
- Thu nhập của
Chính phủ
= a + b + c + d -
a - (c + e) = b + d -
e
Hay phúc lợi xă hội = e - (b +d)
Hai tam giác b và d thể
hiện sự mất mát, tiêu biểu cho tổn thất
hiệu năng, tổn thất này xuất hiện do
thuế quan làm lệch lạc sản xuất và tiêu dùng.
Miền e tiêu biểu cho các nguồn lợi ngoại
thương, xuất hiện do thuế quan làm giảm giá
hàng hóa Nước ngoài. Nguồn lợi này phụ
thuộc vào khả năng của nước đặt ra
thuế quan. Nếu như nước đó không có
khả năng tác động đến giá của thế
giới (như trường hợp nước nhỏ) th́
khoản lợi ngoại thương e sẽ
mất đi, rơ ràng thuế quan đă làm giảm phúc
lợi xă hội.
Hăy tưởng tượng
rằng có một nước sản xuất và tiêu
thụ hai loại hàng hóa, hàng công nghiệp và thực
phẩm. Đây là một nước nhỏ, không có
khả năng tác động đến các điều
kiện mậu dịch, Chúng ta giả thiết rằng, nước
này xuất khẩu hàng công nghiệp và nhập khẩu hàng
thực phẩm. V́ vậy, họ sẽ bán hàng công
nghiệp của ḿnh với giá thế giới PM và mua
thực phẩm với giá thế giới PF.
Biểu đồ 3.3A minh
họa t́nh trạng nước này khi không có thuế quan.
Tại một thời điểm, nền kinh tế sẽ
sản xuất ở một điểm nằm trên
đường giới hạn khả năng sản
xuất, được kư hiệu là
Q1. Đường thẳng tiếp xúc
với đường giới hạn khả năng
sản xuất tại Q1
có độ dốc bằng (-PM/PF) chính là đường ràng buộc ngân
sách của nền kinh tế, tức là, tất cả
những điểm tiêu dùng mà nó có thể đạt
được. Nền kinh tế sẽ chọn một
điểm trên đường ràng buộc ngân sách, nơi
đường này tiếp xúc với
đường đẳng ích cao nhất, được
biểu thị bằng D1.
Biểu
đồ 3.3A: Cân bằng trong điều kiện mậu
dịch tự do đối với một nước
nhỏ :
Giả sử chính
phủ đưa ra một loại thuế quan đối
với thực phẩm theo giá trị có tỷ lệ là t. Lúc này giá thực phẩm đối với
người sản xuất trong nước lẫn người
tiêu thụ sẽ tăng lên PF(1+t) và v́ vậy đường
biểu thị giá tương đối sẽ trở nên
bằng phẳng hơn với độ dốc là -PM/
PF(1+t).
Việc giảm giá tương đối
của hàng công nghiệp sẽ tác động trực
tiếp đối với sản xuất: sản lượng
hàng công nghiệp giảm, trong khi sản lượng lương
thực tăng. Thay đổi này trong sản xuất
được thể hiện ở biểu đồ 3.3B,
điểm sản xuất từ Q1 dịch
chuyển sang Q2.
Tác động đối với tiêu dùng
sẽ phức tạp hơn, thuế quan sẽ tạo nên
thu nhập, mà thu nhập này sẽ phải được
sử dụng phần nào. Nói chung, tác động chính xác
của thuế quan sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào
việc chính phủ sử dụng thu nhập từ
thuế quan như thế nào.
Giả sử chính phủ trả
lại tất cả thu nhập từ thuế cho người
tiêu dùng, trong trường hợp này, đường ngân
sách của người tiêu dùng sẽ không phải là
đường thằng có độ dốc -PM/ PF(1+t)
đi qua điểm sản xuất Q2 nữa do người
tiêu dùng có thể sử dụng nhiều hơn, bởi v́
bên cạnh thu nhập có được từ sản
xuất, họ c̣n có được thu nhập từ
thuế quan mà nhà nước cung cấp.
Làm thế nào để t́m được
đường ngân sách thực? Giả định, giá
trị nhập khẩu thực phẩm bằng đúng giá
trị xuất khẩu hàng
công nghiệp, ta có:
PM(QM - DM)
= PF(DF -
QF) (1)
Phần bên trái của biểu thức
tiêu biểu cho xuất khẩu tại mức giá thế
giới, phần bên phải tiêu biểu cho giá trị
của nhập khẩu.
Biểu thức trên có
thể sắp xếp lại để thấy rằng, giá
trị tiêu dùng bằng với giá trị sản xuất
ở mức giá thế giới:
PMQM + PFQF =
PMDM + PFDF
(2)
Trong trường hợp
Chính phủ thu thuế và chúng ta giả định số
thuế thu được trả lại toàn bộ cho người
tiêu dùng, với lập luận rằng, giá trị tiêu dùng
bằng với giá trị sản xuất ở mức giá
thế giới (biểu
thức 2) , đường ngân sách có thể xác định
bằng I= PMDM + PFDF và độ dốc của đường
ngân sách sẽ là (-PM/PF). Đường ngân sách này đi
qua điểm sản xuất Q2, điểm tiêu
thụ phải nằm trên đường ràng buộc ngân
sách này.
Biểu
đồ 3.3B: Thuế quan tại một nước
nhỏ:
Sản xuất và tiêu dùng
thực phẩm QF, DF
Tuy nhiên, người tiêu dùng sẽ không
chọn điểm nằm trên đường ràng
buộc ngân sách mới mà tại đó đường này
tiếp xúc với đường bàng quan. Thay vào đó,
thuế quan làm cho họ mua ít thực phẩm và nhiều
hàng công nghiệp hơn. Điểm tiêu thụ sau khi có
thuế quan được thể hiện ở D2
trong biểu đồ 3.3B, nó nằm trên đường ràng
buộc ngân sách mới nhưng đồng thời lại
nằm trên một đường đẳng ích tiếp
xúc với đường thẳng có độ dốc
-PM/ PF(1+t). Đường thẳng này nằm phía trên
đường thẳng có cùng độ dốc và đi
qua điểm sản xuất Q2: khoảng cách
ở đây là thu nhập từ thuế quan sẽ
được phân ph́ối lại cho người tiêu dùng.
So sánh biểu đồ 3.3A và 3.3B, nhận thấy
rằng:
(1) Khi có thuế quan th́ phúc lợi
sẽ trở nên ít hơn so với tự do mậu
dịch đó là v́ D2 nằm trên đường
đẳng ích thấp hơn so với D1
(2) Phúc lợi giảm là kết
quả của hai tác động:
(a) Nền kinh tế không c̣n sản
xuất ở điểm có thể tối đa hóa giá
trị thu nhập theo giá thế giới do đường ngân sách đi qua Q2 nằm bên trong ngân
sách đi qua D1.
(b) Người tiêu dùng sẽ không
chọn điểm phúc lợi cao nhất trên đường
ngân sách; họ sẽ chuyển lên đường đẳng
ích tiếp xúc với đường ngân sách thực
của nền kinh tế.
Cả (a) và (b) đều là kết
quả của việc các nhà tiêu dùng và sản xuất
trong nước đều phải chịu những
giá khác với giá thế giới. Tổn thất
về phúc lợi là do sản xuất không có hiệu
quả, (a) là phần tương ứng của tổn
thất do lệch lạc trong sản xuất và (b) là
tổn thất do lệch lạc trong tiêu thụ.
(3) Thuế quan làm thu hẹp buôn bán.
Sau khi có thuế quan xuất khẩu và nhập khẩu
đều giảm.
Đối
với một nước lớn, các nhà kinh tế học
cũng chứng minh được rằng:
(1)
Thuế quan làm cho đất nước buôn bán ít hơn
trong bất kỳ điều kiện mậu dịch
được đặt ra nào. Điều này cũng hàm
ư rằng, nếu điều kiện mậu dịch
được cải thiện, cái lợi có được
từ điều kiện cải thiện này có thể bù
đắp sự lệch lạc trong sản xuất và tiêu
thụ.
(2)
Đối với điều
kiện mậu dịch “Trong nước”, thuế quan
sẽ cải thiện điều kiện mậu dịch,
làm giá tương đối của hàng công nghiệp tăng
cao.
(3)
Đối với phúc lợi “Trong nước”, tác
động của thuế quan là không rơ ràng. Tùy thuộc
vào điều kiện mậu dịch giống như trong
phân tích trong điều kiện nước nhỏ,
nếu điều kiện mậu dịch không được
cải thiện, thuế quan sẽ làm giảm phúc lợi
và ngược lại sẽ làm tăng phúc lợi.
1.1-
Khái niệm:
Trợ cấp xuất
khẩu là khoản tiền Chính phủ trả cho một công
ty hay một cá nhân đưa hàng ra bán
ở nước ngoài .
Cũng giống như
thuế quan, trợ cấp xuất khẩu có thể là
theo khối lượng (một lượng trợ cấp
cố định đối với mỗi đơn
vị), hay theo giá trị (một tỷ lệ nào đó
của giá trị xuất khẩu). Khi chính phủ
đưa ra sự trợ cấp, các nhà xuất khẩu
sẽ xuất khẩu hàng hóa tới mức mà tại
đó giá trong nước sẽ cao hơn giá nước
ngoài đúng bằng lượng trợ cấp.
1.2- Đo lường tác động
của trợ cấp xuất khẩu:
Tác động của trợ cấp
xuất khẩu đối với giá cả hoàn toàn ngược
lại với tác động của thuế quan.
Khi một “nước lớn” thực hiện
trợ cấp cho một hàng hóa xuất khẩu sẽ
đưa đến các tác động được phân
tích trong biểu đồ 3.4 như sau:
Biểu
đồ 3.4: Tác động của trợ cấp xuất
khẩu:
|
Biểu đồ 3.4 minh họa tác
động của trợ cấp xuất khẩu. Giá
tại nước xuất khẩu tăng từ PW lên PS ,
nhưng do giá ở nước nhập khẩu giảm
từ PW xuống PS*, nên mức tăng của giá
sẽ thấp hơn mức trợ cấp.
Ở nước xuất khẩu, người
tiêu dùng bị tổn thất, các nhà sản xuất
được lợi và chính phủ th́ bị thiệt do
phải chi tiền cho khoản trợ cấp. Tương
tự như trong phân tích ở biểu đồ 3.2,
tổn thất của người tiêu dùng ở biểu
đồ 3.4 là diện tích a + b; cái lợi của nhà
sản xuất là diện tích a + b + c; trợ cấp
của chính phủ là diện tích
b + c + d + e + f + g. V́ vậy, thiệt hại ṛng
về phúc lợi là toàn bộ diện tích của b + d + e
+ f + g. Trong đó, b và d là đại diện cho những
tổn thất do sự lệch lạc trong tiêu dùng và
trong sản xuất, giống như tổn thất do
thuế quan gây ra.
Thêm vào đó, ngược lại với thuế quan, trợ cấp xuất
khẩu sẽ làm thiệt hại cho điều kiện
mậu dịch thông qua việc giảm giá của hàng
xuất khẩu ở thị trường nước ngoài
từ PW xuống PS*. Điều này dẫn đến
các tổn thất mậu dịch kèm theo e + f + g, bằng
(PW - PS*) nhân
với lượng xuất khẩu trong điều
kiện có trợ cấp.
V́ vậy, trợ cấp xuất
khẩu chắc chắn sẽ dẫn đến kết
quả: phí tổn cao hơn lợi ích.
2.1- Khái niệm:
Hạn ngạch nhập
khẩu có nghĩa là số lượng hàng hóa hoặc giá
trị hàng hóa mà Chính phủ một nước quy định
nhập khẩu nói chung hoặc từ một quốc gia
cụ thể nào đó trong một thời gian nhất
định, thường là một năm.
Hạn ngạch tuyệt
đối: Giới
hạn tối đa về số lượng hoặc
về giá trị hàng hóa
được phép nhập khẩu nói chung hoặc từ
một quốc gia cụ thể trong một khoảng
thời gian nhất định.
Hạn ngạch thuế
quan: Giới hạn tối đa về số lượng
hoặc về giá trị hàng hóa được phép
nhập khẩu được hưởng thuế quan
ưu đăi, nếu số lượng hoặc giá trị
hàng hóa vượt qua ngưỡng tối đa này sẽ
phải chịu mức thuế quan cao.
Thường những
giới hạn này được áp dụng bằng cách
cấp giấy phép cho một công ty hay cá nhân. Khi hạn
ngạch quy định cho cả mặt hàng và thị trường
th́ hàng hóa đó chỉ được
nhập khẩu từ thị trường với
số lượng và thời gian đă định.
2.2-
Đo lường tác động của hạn ngạch
nhập khẩu:
Khi nhập khẩu bị
hạn chế sẽ làm cho mức giá ban đầu về
lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung
cấp trong nước cộng với lượng hàng
nhập. Điều này sẽ làm giá tăng cho đến
khi thị trường trở nên cân bằng. Một
hạn ngạch nhập khẩu sẽ làm giá trong nước
tăng lên một lượng tương đương
với một loại thuế quan có tác dụng hạn
chế nhập khẩu ở cùng một mức.
Hạn ngạch khác thuế quan ở điểm, chính phủ sẽ không có thu
nhập từ hạn ngạch. Khi một hạn ngạch
được dùng để hạn chế nhập
khẩu thay cho thuế quan th́ lượng tiền đáng
ra là thu nhập của chính phủ từ thuế quan
sẽ rơi vào túi bất kỳ người nào có
giấy phép nhập khẩu. Lợi nhuận mà người
có giấy phép nhập khẩu thu được gọi là
“tiền thuê hạn ngạch”.
Xét trường hợp cụ thể
đối với hạn ngạch nhập khẩu
đường của Mỹ vào năm 1990 qua biểu đồ
3.5:
Đối với mặt hàng đường,
Mỹ được xem là “một
nước nhỏ” (áp dụng thuế quan hay hạn
ngạch không làm tăng giá đường thế
giới).
Giá đường thế giới
đang ở mức 280 USD/tấn nên cần có hạn
ngạch để nâng giá đường của Mỹ lên
466 USD/tấn. Giả sử không có thuế nhập
khẩu, quyền được bán đường
của Mỹ lên đến 466
- 280 = 186 USD/tấn.
Nếu không có hạn ngạch, lượng
đường nhập khẩu có thể là 9.26 triệu
tấn trong năm 1990 với mức giá ngang bằng giá
thế giới. Tuy nhiên, với một hạn ngạch
nhập khẩu là 2.13 triệu tấn đường
đă làm giá đường Trong nước Mỹ tăng
lên, giá 466 USD/tấn.
Người tiêu dùng Trong nước
Mỹ bị thiệt hại bằng diện tích miền a
+ b + c + d, tương ứng giá trị bằng ((9,26+
8,45)*186USD/tấn)/2 = 1,647 tỷ USD.
Các khoản thiệt hại này
được phân chia cho các đối tượng
như sau:
Nhà sản xuất Trong nước
được lợi bằng diện tích miền a:
= ((5,14+6,32)*186USD/tấn)/2 = 1,066 tỷ
USD.
Người có giấy phép
nhập khẩu theo hạn ngạch được lợi
bằng diện tích miền c: =
2,13 * 186USD/tấn = 0,396 tỷ USD.
Thiệt hại do lệch lạc trong
sản xuất và tiêu dùng bằng diện tích miền b và
d:
=(6,32 - 5,14)*186/2 + (9,26 -
8,45)*186/2 = 0,185 tỷ USD.
Biểu
đồ 3.5: Hạn ngạch nhập khẩu của
Mỹ đối với đường:
|
Nếu hạn ngạch
nhập khẩu được giao cho nhà nhập khẩu nước
ngoài th́ “chi phí cho hạn ngạch”
sẽ lên đến (0,396 + 0,185) = 0,581 tỷ USD.
Xu hướng của các công cụ
bảo hộ vẫn cung cấp lợi ích cho các nhóm
nhỏ nhà sản xuất, họ được lợi
rất lớn; c̣n thiệt hại được chia cho
số lớn người tiêu dùng, mỗi người tiêu
dùng chỉ thiệt một phần rất nhỏ. Trong ví
dụ trên, người tiêu dùng Mỹ chỉ thiệt
hại khoảng 6 - 7USD mỗi người/năm hay
khoảng 25 USD cho mỗi gia đ́nh, v́ vậy họ
hầu như không biết có sự tồn tại của
hạn ngạch nhập khẩu đường. Ngược
lại với người tiêu dùng, các nhà sản xuất
đường có lợi rất lớn. Với khoảng
12.000 công nhân, nhà sản xuất được lợi
khoảng 90.000USD cho mỗi lao động.
3.1- Hạn chế xuất khẩu
tự nguyện:
Hạn chế xuất khẩu tự
nguyện ( Voluntary Export Restraints - VERs) là một biến thêí
của hạn ngạch nhập khẩu do phía nước xuất khẩu đặt
ra thay v́ nước nhập khẩu. Ví dụ như
việc Nhật Bản hạn chế
xuất khẩu ô tô sang Mỹ kể từ năm
1981.
VERs nói chung được đưa ra
theo yêu cầu của nước nhập khẩu và
được nước xuất khẩu chấp nhận
nhằm chặn trước những hạn chế mậu
dịch khác.
VERs có những lợi thế chính
trị và pháp lư nhất định nên trong những năm
gần đây chúng trở thành những công cụ
được ưa dùng trong chính sách ngoại thương.
3.2- Trợ cấp tín dụng xuất
khẩu:
Trợ cấp tín dụng xuất
khẩu cũng giống như trợ
cấp xuất khẩu trừ việc nó mang h́nh thức
như một khoản cho vay có tính chất trợ cấp
dành cho người mua. Hầu hết các nước đều
có Ngân hàng XNK, có nhiệm vụ cung cấp các khoản
cho vay ít nhiều có tính chất trợ cấp để
hỗ trợ cho xuất khẩu.
3.3- Sự mua sắm của quốc gia:
Việc mua sắm của chính phủ
hay của một số công ty chịu điều tiết
mạnh mẽ có thể bị hướng trực
tiếp vào các hàng hóa được sản xuất trong
nước, ngay cả khi hàng hóa đó đắt hơn hàng
nhập khẩu. Ngành công nghiệp viễn thông của Châu
Âu là một ví dụ cổ điển.
Về nguyên tắc các quốc gia Châu Âu thực
hiện tự do mậu dịch. Tuy
vậy, khách hàng chủ yếu của các thiết bị
viễn thông là các công ty điện thoại, và ở Châu
Âu cho đến gần đây nhất, các công ty này
vẫn thuộc chính phủ. Các công ty điện
thoại do nhà nước sở hữu này mua hàng từ
những người bán trong nước, ngay cả khi
họ buộc phải trả giá cao hơn so với khi mua
hàng của nước khác. V́ vậy hầu như
diễn ra rất ít việc trao đổi, buôn bán các
thiết bị viễn thông ở Châu Âu.
3.4- “Chống
bán phá giá” trong thương mại quốc tế:
Luật
chống phá giá, về ư nghĩa thực tế lại
mang tính chất bảo hộ cho ngành sản xuất
nội địa, theo WTO, “ chống phá giá có các vấn
đề cần quan tâm như sau:
3.4.1- Thế nào là bán phá giá:
Một sản phẩm được
coi là “phá giá” nếu giá xuất khẩu thấp hơn
giá trị thông thường của sản phẩm đó
ở nước xuất khẩu. Có 3 cách xác định
bán phá giá:
Thứ nhất: Giá xuất khẩu của sản phẩm < trị
giá thông thường của sản phẩm tương
tự được tiêu thụ tại nước
xuất khẩu ( sản
phẩm tương tự phải >5% khối lượng
hàng hóa xuất khẩu).
Trị giá thông thường của sản phẩm tương
tự được xác định theo qui tắc: trung
thực, cùng một mức độ và ở cùng một
thời điểm.
Thứ hai, nếu không so sánh được như
trên th́:
Giá
xuất khẩu của sản phẩm < mức giá có
thể so sánh được của sản phẩm tương tự được
xuất khẩu sang một nước thứ ba thích
hợp
Thứ ba, nếu không xác định
được theo cách thứ hai th́:
Giá xuất khẩu của sản
phẩm < trị giá cấu thành, tức giá được
xác định bằng chi phí sản xuất tại nước
xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản chi phí
hợp lư về bán hàng, quản
lư và một phần lợi nhuận.
Trường hợp nước
xuất khẩu được xác định là có
nền kinh tế “phi thị trường” th́ bán phá giá
được xác định bằng cách so sánh giá
xuất khẩu với giá trị cấu thành của hàng
hóa tương tự được sản xuất
tại nước thứ ba, có nền kinh tế thị trường
và mức độ phát triển tương đương.
Biên
độ bán phá giá (BĐBPG)
Giá trị thông thường - Giá xuất khẩu
BĐBPG =
Giá
xuất khẩu
Nếu
BĐBPG > 0 th́ được coi là có phá giá
Việc xác định có
tồn tại biên độ bán phá giá hay không, cơ quan
điều tra thường sử dụng một hệ thống lấy mức giá quân
b́nh Hiệp định chống phá giá của
WTO yêu cầu việc
so sánh giá dựa trên
cơ sở :
Hoặc là giá tiêu
thụ nội địa b́nh quân gia quyền với giá b́nh
quân gia quyền của tất cả giao dịch xuất
khẩu
Hoặc là giá
tiêu thụ nội địa với giá xuất
khẩu dựa trên cơ sở của từng cuộc giao
dịch.
3.4.2- Tiêu chí để áp dụng biện pháp
chống bán phá giá
Biện pháp chống bán
phá giá chỉ được áp dụng khi chứng minh
được hành vi bán phá giá của nước
xuất khẩu đă thỏa măn các điều kiện
sau:
Thứ nhất, một sản phẩm
được coi là “phá giá” nếu giá xuất
khẩu thấp hơn giá trị thông thường của
sản phẩm đó ở nước xuất khẩu
Thứ hai, có sự thiệt
hại cho ngành sản xuất nội địa, như:
- Có sự tăng trưởng đáng kể của
hàng nhập khẩu bán phá giá tính theo số lượng
tuyệt đối hay tương quan với sản
xuất và tiêu dùng
- Giá của mặt hàng nhập khẩu bán phá giá
thấp hơn giá của sản phẩm nội địa
tương tự gây ép giá của sản phẩm tương
tự hoặc ngăn cản giá của các sản phẩm
đó tăng lên. Kết quả là ngành sản xuất
nội địa bị tổn hại hoặc có nguy cơ
làm tổn hại ngành sản xuất nội địa
của nước nhập khẩu.
Thứ ba, phải có mối quan hệ nhân
quả giữa hàng nhập khẩu bán phá giá với
thiệt hại của ngành sản xuất nội địa.
Để xác định liệu nhà hàng khẩu bán
phá giá có đang gây thiệt hại cho ngành sản
xuất nội địa hay không cần tính đến các
yếu tố kinh tế khách quan tác động đến
ngành sản xuất đó, cụ thể như là:
- Sự giảm sút
thực tế và tiềm tàng về số lượng,
doanh số, thị phần , lợi nhuận, năng
suất, tỷ suất đầu tư hoặc sử
dụng công suất.
- Tác động lên giá nội địa.
- Tác động thực tế
và tiềm tàng về chu chuyển tiền, tồn kho,
việc làm, tiền lượng, tăng trưởng và năng
lực huy động vốn đầu tư.
Ngoài
các tiêu chí trên, một vụ kiện bán phá giá
muốn được tiến hành điều tra được phải
thỏa măn thêm các tiêu chí bổ sung sau:
Thứ
nhất, các nhà sản xuất ủng hộ việc đánh
thuế chống phá giá phải chiếm hơn 50% số lượng
người bày tỏ ư kiến phản đối
hoặc ủng hộ kiến nghị.
Thứ
hai, các nhà sản xuất ủng hộ việc đánh
thuế phải chiếm ít nhất 25% sản lượng
của ngành sản xuất.
Thứ
ba, việc áp dụng biện pháp chống phá giá cũng
không đáng được đặt ra nếu việc tăng
hàng nhập khẩu chỉ tác động đến
một số ít nhà sản xuất và biên bộ phá giá
nhỏ hơn 2%, lượng hàng nhập khẩu dưới
3% tổng lượng hàng hóa đang
được xem xét là bán phá
giá, nhập khẩu vào nước nhập khẩu.
Trừ trường hợp, số lượng nhập
khẩu của các hàng hóa tương tự từ nước
có khối lượng nhập dưới 3% nhưng
tổng các sản phẩm tương tự của nước
này được nhập vào nước nhập khẩu
chiếm trên 7% nhập khẩu sản phẩm tương
tự vào nước nhập khẩu.
3.4.3-
Các biện pháp chống bán phá giá:
Biện pháp tạm thời: Sau
khi cơ quan điều tra sơ bộ khẳng định
về thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất nội
địa, nước nhập khẩu có thể áp
dụng một mức thuế chống bán phá giá tạm
thời. Mức thuế này không được đặt
cao hơn biên độ bán phá giá ban đầu. Các
biện pháp tạm thời không được áp dụng
sớm hơn 60 ngày kể từ ngày bắt đầu
điều tra.
Thời gian tiến hành điều tra để đi
đến một quyết định tạm thời là không
quá 4 tháng, có thể mở rộng đến 6 tháng
nếu sự việc phức tạp cần nhiều
thời gian để thu thập thông tin, có thể kéo dài
đến 9 tháng nếu được phép tiến hành
điều tra bổ sung.
Tiền thu thuế chống bán phá giá tạm thời
sẽ được hoàn lại nếu mức thuế
cuối cùng được quyết định thấp hơn
mức thuế tạm thời.
Cam kết về giá: Nhà xuất khẩu sau
tiến tŕnh điều tra đă bị kết luận là
đang bán phá giá có thể đưa ra cam kết
sửa lại giá và việc xuất khẩu trong tương
lai sẽ được bán ở mức không thể gây
tổn thương cho công nghiệp nội địa
của nước nhập khẩu.
Trường hợp khi “số lượng nhà́
xuất khẩu thực tế hoặc tiềm tàng quá
nhiều” nước nhập khẩu cũng có quyền
xem xét không chấp nhận cam kết đó.
Quyết định đánh thuế
chống phá giá: Sau khi tất cả các điều kiện để có
thể đánh thuế đă được đáp
ứng, biện pháp thông thường nhất chống
lại hành động bán phá giá là áp đặt một
mức thuế quan đặc biệt đánh vào việc
nhập khẩu các hàng hóa bán phá giá.
Số lượng
thuế chống bán phá giá được xác định
riêng biệt cho từng nhà xuất khẩu hoặc nhà
sản xuất; số lượng thuế phải nộp
thay đổi theo biên độ phá giá xác định rơ
ràng cho từng nhà xuất khẩu.
Các nhà xuất khẩu
thuộc quốc gia
bị đánh thuế bán phá phá không tham gia vụ
kiện sẽ phải chịu mức thuế nhập
khẩu cao hơn các nhà xuất khẩu tham gia vụ
kiện.
3.5- Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là giá
tiền tệ của một nước tính theo đồng
tiền của nước khác.
Mỗi nước đều có
một đồng tiền riêng mà theo đó giá trị
của hàng hóa và dịch vụ được định
ra, ví dụ, đồng đô la Mỹ, mác Đức,
bảng Anh...
Tỷ giá hối đoái đóng vai tṛ
chính trong thương mại quốc tế, nó cho phép
chúng ta so sánh giá cả của các hàng hóa và dịch
vụ sản xuất trên các nước khác nhau. Giá hàng
xuất khẩu của một nước sẽ được
tính theo giá của nước nhập khẩu nếu
biết tỷ giá hối đoái giữa đồng
tiền của hai nước.
Sự thay đổi tỷ giá hối
đoái được mô tả như là sự lên giá hay
mất giá của đồng tiền. Sự mất giá
của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ là
việc cần phải có nhiều đồng tiền
Việt Nam hơn mới mua được một đô la
Mỹ. Ví dụ, tỷ giá hối đoái giũa đồng
Việt Nam và đô là Mỹ cuối năm 2000 là 14.514VNĐ/USD,
đến cuối năm 2001, tiền đồng Việt
Nam giảm giá so với đô la Mỹ, tỷ giá hối
đoái là 15.084VNĐ/USD. Sự tăng giá của đồng
Việt Nam so với đô la Mỹ sẽ được
hiểu ngược lại, là chỉ cần ít tiền
đồng Việt Nam hơn sẽ mua được
một đô la Mỹ.
“Khi đồng tiền của một
nước mất giá, người nước ngoài
nhận ra rằng, giá hàng xuất khẩu của nước
này rẻ đi, và người dân trong nước
nhận thấy hàng nhập từ nước ngoài đắt
lên. Sự lên giá có hiệu quả ngược lại: người
nước ngoài sẽ phải trả nhiều hơn cho
sản phẩm của nước này, và người dân
trong nước phải trả ít hơn cho hàng hóa của
nước ngoài”. Chính v́ điều này mà tỷ giá
hối đoái được sử dụng để
điều tiết chính sách khuyến khích xuất
khẩu hay nhập khẩu hàng hóa của một nước.
3.6- Các hàng rào hành chính và kỹ
thuật:
3.6.1- Cấm xuất nhập khẩu:
Là h́nh thức cấm XNK hẳn
một loại hàng hóa nào đó, ví dụ ở Việt
Nam, danh mục hàng hóa bị cấm xuất khẩu,
nhập khẩu được qui định theo Luật
Thương mại ban hành 10/5/1997, có hiệu lực
từ 01/01/1998 và qui định cụ thể theo Quyết
định 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 gồm có 7 mặt hàng
cấm xuất khẩu và 11 mặt hàng cấm nhập
khẩu.
3.6.2-
Giấy phép XNK:
Qui
định muốn xuất hoặc nhập khẩu một
mặt hàng nào đó phải được cấp phép, có
thể từ Bộ thương mại hoặc các Bộ
quản lư chuyên ngành.
3.6.3-
Qui định về cửa khẩu nhập khẩu:
Là việc chính phủ qui định
cho một loại hàng hóa nào đó, chỉ được
quyền nhập khẩu tại một cửa khẩu
nhất định, ví dụ như, năm 1982,
Chính phủ Pháp bắt buộc khi nhập khẩu
đầu máy video của Nhật đều phải đi
qua cửa khẩu tại Poitiers, và thực tế đă
hạn chế một cách hiệu quả việc nhập
khẩu hàng hóa này vào Pháp.
3.6.4- Hàng
rào kỹ thuật về tiêu chuẩn công nghệ, lao
động, về vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường...
Vận dụng Thỏa thuận về
các hàng rào kỹ thuật đối với thương
mại (Technical Barriers to Trade - TBT)
và “Những ngoại lệ chung” trong WTO, các nước
c̣n đưa ra những tiêu chuẩn
mà có thể, hàng hóa sản xuất nội địa
dễ dàng đáp ứng hơn hàng hóa nhập khẩu, như
các qui định về công nghệ, qui tŕnh sản
xuất, về vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo
vệ môi trường...
Bảng 3.1: Tóm tắt kết quả của việc
áp dụng các công cụ chính sách ngoại thương
|
Thuế quan |
Trợ cấp XK |
Hạn ngạch NK |
VER |
Thặng dư sản
xuất |
Tăng lên |
Tăng lên |
Tăng lên |
Tăng lên |
Thặng dư tiêu dùng |
Giảm xuống |
Giảm xuống |
Giảm xuống |
Giảm xuống |
Thu nhập của chính
phủ |
Tăng lên |
Giảm xuống (chi tiêu
của CP tăng lên) |
Không thay đối |
Không thay đổi |
Phúc lợi xă hội |
Không rơ ràng (giảm xuống đối với nước
nhỏ) |
Giảm xuống |
Không rơ ràng (giảm xuống đối với nước
nhỏ) |
Giảm xuống |