Chương 4
CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP ÁP DỤNG TRONG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG
III. CÁC LOẠI H̀NH CHÍNH SÁCH TRONG NGOẠI THƯƠNG
Chương 4
CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
I- Chính sách ngoại thương: |
1-
Khái niệm về chính sách ngoại thương:
Chính
sách ngoại thương là một hệ thống các nguyên
tắc, biện pháp kinh tế, hành chính và pháp luật dùng
để thực hiện các mục tiêu đă xác định
trong lĩnh vực ngoạüi thương của một nước
trong thời kỳ nhất định.
Chính
sách ngoại thương là một bộ phận quan
trọng của chính sách kinh tế của một nước,
nó góp phần thúc đẩy thực hiện các mục tiêu
kinh tế của đất nước trong từng
thời kỳ.
Mục
tiêu phát triển kinh tế của một đất nước
trong từng thời kỳ có khác nhau, cho nên đường
lối chính sách ngoại thương phải thay đổi
để đạt được những mục tiêu
cụ thể của chính sách kinh tế. Không có chính sách
ngoại thương áp dụng cho mọi thời kỳ phát
triển kinh tế. Tuy nhiên, các chính sách ngoại thương
đều có tác dụng bảo vệ sản xuất trong
nước, chống lại sự cạnh tranh từ bên
ngoài, tạo điều kiện thúc đẩy sản
xuất trong nước phát triển và bành trướng
ra bên ngoài.
Mỗi
nước đều có những đặc thù chính
trị, kinh tế - xă hội và điều kiện tự
nhiên để phát triển kinh tế, v́ vậy mỗi nước
đều có chính sách phát triển ngoại thương
riêng với các biện pháp cụ thể
2- Ư nghĩa của việc nghiên cứu chính sách ngoại thương: |
Đối
với các nhà quản lư và doanh nghiệp của sản
xuất và thương mại, việc nghiên cứu chính sách
ngoại thương của
các nước có ư nghĩa quan trọng:
-
Giúp rút ra những kinh nghiệm về xây dựng và
tổ chức thực hiện chính sách ngoại thương
của đất nước một cách có khoa học và
hiệu quả nhất.
-
Nắm rơ chính sách ngoại thương của các nước
mới t́m cách xâm nhập và phát triển thị trường, chọn
thị trường thích hợp, nâng cao hiệu quả
hoạt động ngoại thương.
-
Giúp các nhà lănh đạo ở tầm vĩ mô xây
dựng chính sách đối ngoại song phương và
đa phương phù hợp.
-
Riêng đối với môn học, việc nghiên cứu chính
sách ngoại thương sẽ giúp học viên khái quát
được chính sách ngoạüi thương
trên thế giới và cụ thể
những nước thường có quan hệ mậu
dịch với nước ta, từ đó có kiến
thức cơ bản để hiểu rơ hơn chính sách
ngoại thương của nhà nước, tạo điều
kiện vận dụng làm tốt công tác chuyên môn trong lĩnh
vực ngoại thương.
3- Các phương pháp áp dụng trong chính sách ngoại thương |
:
Phương
pháp ở đây có nghĩa là cách thức thực
hiện những mục tiêu mà chính sách ngoại thương
đề ra thông qua việc lựa chọn những
biện pháp áp dụng thích hợp. Có hai phương pháp:
-
Phương pháp tự định: Nhà nước
tự ḿnh quyết định
những biện pháp ngoại thương khác nhau với
mức độ khác nhau trong các quan hệ buôn bán với
nước ngoài.
Cơ
sở để thực hiện phương pháp tự
định là quyền độc lập, tự chủ,
tự quyết của mỗi quốc gia. Các chính phủ căn
cứ vào t́nh h́nh kinh tế trong và ngoài nước để
đưa ra các biện pháp thuế quan, hạn chế
về số lượng, các biện pháp tài chính tiền
tệ phi thuế quan... đối với từng ngành hàng,
từng quan hệ buôn bán với nước ngoài với
mức độ khác nhau để thực hiện các
mục tiêu ngoại thương đề ra.
Trong
xu thế nhất thể hóa khu vực và toàn cầu như
hiện nay, phương pháp tự định đang
giảm dần vai tṛ của ḿnh trong việc xây dựng
chính sách ngoại thương của từng nước.
Tuy nhiên, nó vẫn được xây dựng ở các
quốc gia có nền kinh tế mạnh, chi phối quan
hệ kinh tế tài chính toàn cầu như Mỹ.
-
Phương pháp thương lượng: Nhà nước
thực hiện thương lượng với các bên tham
gia quan hệ buôn bán thỏa thuận. lựa chọn các
biện pháp và mức độ áp dụng nó vào quan
hệ buôn bán lẫn nhau
Phương
pháp này được thực hiện dưới h́nh
thức kư kết những điều ước hiệp
định mậu dịch tự do song phương và
đa phương. Ví dụ như 148 nước đă kư
kết vào các hiệp định của tổ chức thương
mại thế giới (WTO) nhằm đạt được
những điều kiện thuận lợi trong quan hệ
buôn bán với các nước khác trên thế giới. Ngày
nay, việc sử dụng phương pháp này ngày càng
phổ biến, phù hợp với quy luật phát triển
nhất thể hóa kinh tế khu vực và toàn cầu
II- Các nguyên tắc điều chỉnh buôn bán quốc tế: |
Có
3 nguyên tắc thường được sử dụng
để điều chỉnh:
Trên
nguyên tắc này các bên dành cho nhau những ưu đăi và
nhân nhượng tương xứng nhau trong quan hệ mua
bán.
Mức
độ ưu đăi và điều kiện nhân nhượng
phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế của các bên
tham gia. Bên yếu hơn sẽ bị lép vế và thường
bị buộc phải chấp nhận những điều
kiện do bên có thực lực kinh tế mạnh hơn
đưa ra.
Ngày
nay, các nước ít áp dụng nguyên tắc này hơn
trong quan hệ buôn bán giữa các nước.
2- Nguyên tắc “ Tối huệ quốc “ (Most Favoured Nation) |
: Nước được ưu đăi nhất:
2.1-
Khái niệm:
Nguyên
tắc “ Tối huệ quốc “ (MFN) là biểu hiện
của việc “ không phân biệt đối xử “
trong quan hệ mậu dịch giữa các nước.
Nó có nghĩa là các bên tham gia trong quan hệ kinh
tế buôn bán sẽ dành cho nhau những điều
kiện ưu đăi không kém hơn những ưu đăi
mà ḿnh đă hoặc sẽ dành cho các nước khác.
Nguyên
tắc này được hiểu theo hai cách:
Cách
thứ nhất:
Tất cả những ưu đăi và miễn giảm mà
một bên tham gia trong các quan hệ kinh tế - thương
mại quốc tế đă hoặc sẽ dành cho bất
kỳ một nước thứ ba nào, th́ cũng
được dành cho bên tham gia kia được hưởng
một cách không điều kiện.
Cách
thứ hai:
Hàng hóa di chuyển từ một bên tham gia trong quan hệ
kinh tế thương mại này đưa vào lănh thổ
của bên tham gia kia sẽ không phải chịu mức
thuế và các phí tổn cao hơn, không bị chịu
những thủ tục phiền hà hơn so với hàng hóa
nhập khẩu từ nước thứ ba khác.
Theo
luật pháp quốc tế th́
điều chủ yếu của quy chế tối huệ
quốc là không phải cho nhau hưởng các đặc
quyền, mà là đảm bảo sự b́nh đẳng
giữa các quốc gia có chủ quyền về các cơ
hội giao dịch thương mại và kinh tế.
Mục
đích của việc
sử dụng nguyên tắc MFN trong buôn bán quốc tế là
nhằm chống phân biệt đối xử, làm cho điều
kiện cạnh tranh giữa các bạn hàng ngang bằng
nhau, nhằm thúc đẩy quan hệ buôn bán giữa các nước
phát triển. Mức độ và phạm vi áp dụng nguyên
tắc MFN c̣n phụ thuộc vào mức độ quan
hệ thân thiện giữa các nước với nhau
2.2-
Cách thức áp dụng nguyên tắc MFN:
Nguyên
tắc MFN được các nước tùy vào lợi ích
kinh tế của ḿnh mà áp dụng rất khác nhau, nh́n
chung có hai cách áp dụng:
Cách
thứ nhất: Áp dụng chế độ tối huệ
quốc có điều kiện: Quốc gia được hưởng
tối huệ quốc phải chấp nhận thực
hiện những điều kiện kinh tế và chính
trị do Chính phủ của quốc gia cho hưởng
đ̣i hỏi.
Cách
thứ hai: Áp dụng chế độ tối huệ
quốc không điều kiện: là nguyên tắc quốc gia này cho
quốc gia khác hưởng chế độ MFN mà không kèm
theo điều kiện ràng buộc nào cả.
Để
đạt được chế độ MFN
của một quốc gia khác, có hai phương pháp
thực hiện:
+
Thông qua đàm phán song phương để kư kết các
hiệp định thương mại
+
Gia nhập tổ chức thương mại thế
giới WTO
2.3-
Chế độ tối huệ quốc dành cho các nước
đang phát triển:
Nghiên
cứu chế độ tối huệ quốc cần
phải nghiên cứu chế độ MFN đặc
biệt dành cho các nước chậm tiến và đang phát
triển thông qua chế độ thuế quan ưu đăi
phổ cập GSP (Generalized
System of Preference).
GSP
là hệ thống ưu đăi về thuế quan do các
nước công nghiệp phát triển dành cho một
số sản phẩm nhất định mà họ nhập
khẩu từ các nước đang phát triển (gọi
là các nước nhận ưu đăi).
Lần
đầu tiên Hội nghị của Liên Hiệp quốc
về Thương Mại và phát triển
(UNCTAD) năm 1968 thông qua việc áp dụng hệ
thống thuế quan ưu đăi chung (GSP) dành cho các nước
đang phát triển tăng khả năng xuất khẩu,
mở rộng thị trường, khuyến khích phát
triển công nghiệp đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế của các nước này.
Nội
dung chính của chế độ GSP là:
-
Giảm thuế hoặc miễn thuế quan đối
với hàng nhập khẩu từ các nước đang
hoặc kém phát triển.
-
GSP áp dụng cho các loại hàng công nghiệp thành
phẩm hoặc bán thành phẩm và hàng loạt các mặt
hàng công nghiệp chế biến
Đặc
điểm của việc áp dụng GSP:
-
Không mang tính chất cam kết:
Chính sách GSP thay đổi từng thời kỳ;
số nước cho ưu đăi và nhận ưu đăi
không cố định. Hiện nay có đến 16 chế
độ GSP bao gồm 27 nước cho ưu đăi và 128
nước, vùng lănh thổ được nhận ưu
đăi.
- GSP chỉ dành cho các nước đang phát
triển: Trong quá tŕnh thực hiện GSP, các nước công
nghiệp phát triển kiểm soát và khống chế các nước
nhận ưu đăi rất chặt, biểu hiện ở
cách quy định về nước được hưởng
GSP. Ví dụ như EU quy định nước đang phát
triển nào có thu nhập GDP tính trên đầu người
cao hơn 6000USD/năm th́ không c̣n được hưởng
GSP nữa.
Quy
định đối với hàng hóa được hưởng
chế độ GSP:
Không phải bất kỳ sản phẩm nào nhập
khẩu vào các nước cho hưởng từ những nước
được hưởng đều được
miễn hay giảm thuế theo GSP. Để được
hưởng chế độ thuế quan ưu đăi GSP,
hàng nhập khẩu vào thị trường những nước
cho hưởng phải thỏa măn 3 điều kiện cơ
bản sau:
-
Điều kiện xuất xứ từ nước
được hưởng
-
Điều kiện về vận tải (ví dụ như hàng
vận chuyển không qua lănh thổ của nước
thứ ba hoặc không bị mua bán, tái chế...tại nước
thứ ba)
-
Điều kiện về giấy chứng nhận xuất
xứ ( chứng từ xác nhận xuất xứ From A)
2.4-
Chế độ tối huệ quốc của một
số nước trên thế giới:
2.4.1-
Quy chế GSP của EU:
Quy
chế 2501/2001 của EU về GSP được áp
dụng từ ngày 01/01/2002 đến 31/12/2004 cho nhiều nước,
trong đó có Việt Nam. So với qui chế áp dụng
trong thời gian từ 1999 đến 2001, qui chế này
đơn giản hơn, chỉ chia hàng hóa làm hai
loại, nhạy cảm và không nhạy cảm. Các nước
khác nhau sẽ được hưởng những mức
thuế GSP khác nhau theo cách
sắp xếp nhằm khuyến khích bảo vệ
quyền lợi người lao động và môi trường
... được định ra trong phụ lục I
của qui chế. Cách sắp xếp các dạng khuyến
khích được chia ra như sau:
Danh
mục chung
Danh
mục đặc biệt khuyến khích bảo hộ
quyền lợi người lao động
Danh
mục đặc biệt khuyến khích bảo vệ môi
trường
Danh
mục đặc biệt cho các nước chậm phát
triển nhất
Danh
mục đặc biệt khuyến khích đấu tranh
chống sản xuất và vận chuyển ma túy.
Các
nước được hưởng GSP của EU chủ
yếu là các nước G77 và các nước chậm phát
triển nhất LDC. Ngoài ra, các LDC
được hưởng những ưu đăi
đặc biệt hơn, tương thích với
chương tŕnh EBA (Everything But Arms) của EU dành
ưu tiên thuế quan và
không áp đặt hạn ngạch mọi mặt hàng
trừ vũ khí và đạn dược; riêng chuối tươi,
gạo và đường áp
dụng hạn ngạch với số lượng tăng
dần và bỏ hẳn vào các năm 2006 và 2009 cho 49 nước
chậm phát triển nhất.
Mỗi
danh mục GSP khác nhau bao gồm nhiều loại sản
phẩm khác nhau, các nước nằm trong danh mục khác
nhau sẽ nhận ưu đăi thuế quan khác nhau cho cùng
một mặt hàng.
Các
nước nằm trong danh mục chung sẽ được
hưởng GSP 7000 mặt hàng (trong 10.300 ḍng hàng của
biểu thuế quan, trong đó có 2.100 mặt hàng thuế
suất MFN đă là 0%), trong đó có khoảng 3.300 mặt
hàng không nhạy cảm và 3.700 mặt hàng nhạy
cảm, dĩ nhiên GSP cũng loại trừ hàng hóa chương
93 trong biểu thuế, vũ khí và đạn dược.
Riêng các LDC được khoảng 8.200 mặt hàng. Các nước
trong danh mục đặc biệt sẽ được hưởng
ưu đăi nhiều hơn so với trong danh mục chung,
ví dụ như các nước thuộc diện khuyến
khích không sản xuất và vận chuyển ma túy,
được miễn thuế hoàn toàn đối với
sản phẩm nông
nghiệp (chương 1 đến chương 24) là những
mặt hàng trong danh mục chung được phân là
“nhạy cảm”
Ưu
đăi thuế quan GSP dựa vào mức thuế MFN và
giảm tỷ lệ thuế xuống, tuy nhiên có những
trường hợp giảm hẳn
bằng cách trừ đi một tỷ lệ thuế
nhất định. Ví dụ, trong danh mục chung, hàng hóa
thuộc chương 50 đến 63 sẽ được
giảm 20% thuế MFN, c̣n hàng hóa nhạy cảm trong
phụ lục IV sẽ được giảm đi
(trừ đi) 3,5%.
Tất cả các loại hàng hóa này nếu muốn
được hưởng ưu đăi thuế quan đều
phải tuân thủ quy
định về xuất xứ hàng hóa của EU
Thông tin chi tiết về qui chế
GSP của EU có thể t́m trên trang web http://www.eurunion.org/legislat/gsp/gsp.htm
2.4.2-
Chế độ MFN và GSP của Mỹ:
-
Chế độ MFN: Tính đến hết 1997, Mỹ
đă cho 164 nước hưởng quy chế MFN trong buôn
bán với Mỹ. Các nước
Đông Âu và Châu Á đă giành được
MFN của Mỹ như Rumani (1975), Hungary (1990),
Tiệp khắc (1990), Đông Đức (1990), Bungary (1991),
Trung Quốc (1980), Mông Cổ (1991) và Campuchia (1996).
Những nước được hưởng
chế độ MFN b́nh quân thuế nhập khẩu đánh
vào hàng hóa là 9%, trong khi đó thuế nhập khẩu b́nh
thường không được hưởng
chế độ MFN thuế bị đánh cao gấp
7 lần. Chẳng hạn năm 1990, trị giá hàng
nhập khẩu vào Mỹ từ Trung quốc là 19 tỷ
USD, nếu không được hưởng quy chế MFN
thuế nhập khẩu sẽ trên 2 tỷ USD, tuy nhiên, do
được hưởng quy chế MFN thuế nhập
khẩu chỉ là 354 triệu USD.
-
Chế độ GSP của Mỹ mang tính đơn phương,
không ràng buộc điều kiện có đi có lại,
mức thuế nhập khẩu hàng từ các nước
nhận ưu đăi vào Mỹ bằng 0.
Mỹ
thường áp dụng chế độ MFN và GSP có điều
kiện để gây sức ép về chính trị và kinh
tế với các bạn hàng. Ví dụ, đối với
Trung Quốc, từ tháng 2/1980 Mỹ cho hưởng chế
độ MFN để kềm chế Trung Quốc phải
nhượng bộ trong các vấn đề nhân quyền
ở Tây Tạng, vấn đề Đài Loan... Hoặc
trong Luật Thương Mại năm 1974, có quy định cấm Tổng Thống không
cho các nước hưởng chế độ GSP như
các nước Cộng Sản (trừ trường
hợp sản phẩm của nước đó là thành viên
của GATT/WTO và IMF, hoặc nước đó không bị
Chủ nghĩa Cộng sản quốc
tế khống chế)
Đối
với Việt Nam, dù đàm phán song phương hay đa
phương, Mỹ cũng đ̣i hỏi Việt Nam áp
dụng quy chế của GATT/WTO với các nguyên tắc cơ
bản là:
-
Không phân biệt đối xử giữa các nước
bạn hàng, thể hiện trong điều khoản về
tối huệ quốc.
-
Đối xử như nhau giữa hàng nhập khẩu và
hàng sản xuất trong nước (quy chế đối
xử trong nước NT - National Treatment).
-
Thực hiện các chính sách cởi mở và tự do.
Bảo hộ bằng thuế quan ở mức thấp và
chỉ áp dụng hạn chế số lượng trong
một số trường hợp đặc biệt.
-
Cam kết thực hiện lịch tŕnh cắt giảm
thuế quan và các hàng rào phi thuế quan.
-
Chính sách và luật pháp phải rơ ràng, công khai.
Bên
cạnh những mặt lợi thế có thể mang
lại, việc chấp nhận các nguyên tắc này đang
là thách thức lớn đối với Việt nam.
Bởi v́, nếu thực hiện, chúng ta phải điều
chỉnh luật pháp của ḿnh cho phù hợp với WTO và
phải điều hành nền kinh tế theo nguyên tắc
đó. Vấn đề này hết sức phức tạp
và đ̣i hỏi phải có thời gian để điều
chỉnh, thực hiện. Từ tháng 12/2001, khi hiệp
định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
có hiệu lực, Mỹ đă trao cho việt nam qui
chế MFN (hay c̣n gọi là qui chế đối xử thương
mại b́nh thường, Normal Trade Relation, NTR).
2.4.3-
Vài nét về chế độ ưu đăi về thuế
quan của Nhật:
Chế
độ GSP của Nhật áp dụng từ 8/1971, chủ
yếu ở ba mặt hàng nông sản chế biến, công
nghiệp và hàng dệt nhập khẩu từ các nước
đang phát triển. Các nước Châu Á đang sử
dụng nhiều nhất chế độ GSP của
Nhật.
Trong
những năm bị ảnh hưởng bởi lệnh
cấm vận của Mỹ, tỷ lệ hàng hóa xuất
sang Nhật của Việt Nam được hưởng
chế độ GSP rất thấp, khoảng 8% tổng
trị giá hàng công nghiệp nhập khẩu vào Nhật
Bản (mức trung b́nh của các nước là 39,8%).
Từ năm 1994 trở đi, khi lệnh cấm vận
được xóa bỏ, hàng hóa Việt Nam xuất
khẩu sang Nhật có dễ dàng hơn .
Nguyên
tắc đối xử trong nước NT được
áp dụng trên nhiều lĩnh vực như thương
mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở
hữu trí tuệ...với ư nghĩa là đối xử như “trong nước” đối với
phía đối tác trong các lĩnh vực được
ghi trong thỏa ước. Qui mô của nghĩa vụ này
có thể thay đổi tùy thỏa ước, đối
với hiệp định chung về thuế quan và thương
mại GATT, NT được qui định chủ yếu
trong điều III “Đăi ngộ quốc gia về
thuế và nguyên tắc đối xử trong nước”.
Trong thương mại hàng hóa, nếu như nguyên
tắc MFN đ̣i hỏi đăi ngộ công bằng
giữa các quốc gia, th́ nghĩa vụ NT đ̣i hỏi
sự đăi ngộ với hàng nhập khẩu, sau khi hoàn
tất các thủ tục hải quan và biên giới, không
được tệ hơn cách đăi ngộ dành cho hàng
sản xuất trong nước.
III-
Các loại h́nh chính sách ngoại thương:
Mỗi
nước đều có chính sách ngoại thương riêng
phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế riêng của từng nước, ở từng
thời kỳ phát triển. Tuy nhiên, chính sách phát
triển ngoại thương của các nước có
thể phân loại theo hai tiêu thức cơ bản sau:
-
Phân loại theo mức độ tham gia của Nhà nước
trong điều tiết hoạt động ngoại thương.
- Phân loại theo mức độ tiếp cận
của nền kinh tế quốc gia với nền kinh
tế thế giới.
A- Phân loại theo mức độ tham gia của Nhà nước trong điều tiết hoạt động ngoại thương
1- Chính sách mậu dịch tự do |
1.1-
Khái niệm:
Chính sách mậu
dịch tự do có nghĩa là nhà nước
không can thiệp trực tiếp vào quá tŕnh điều
tiết ngoại thương mà mở cửa hoàn toàn
thị trường nội địa để cho hàng hóa
và tư bản được tự do lưu thông
giữa trong và ngoài nước, tạo điều
kiện cho thương mại quốc tế phát triển
trên cơ sở quy luật tự do cạnh tranh.
Đặc
điểm chủ yếu của chính sách mậu dịch
tự do là:
-
Nhà nước không sử dụng các công cụ để
điều tiết xuất khẩu và nhập khẩu.
- Quá tŕnh nhập khẩu và xuất khẩu
được tiến hành một cách tự do.
-
Quy luật tự do cạnh tranh điều tiết sự
hoạt động của sản xuất tài chính và thương
mại trong nước.
1.2-
Ưu và nhược điểm của chính sách
mậu dịch tự do:
Ưu
điểm:
-
Mọi trở ngại thương mại quốc tế
bị loại bỏ, giúp thúc đẩy sự tự do hóa
lưu thông hàng hóa giữa các nước.
-
Làm thị trường nội địa phong phú hàng hóa
hơn, người tiêu dùng có điều kiện thỏa
măn nhu cầu của ḿnh một cách tốt nhất.
-Tạo
môi trường cạnh tranh gay gắt trên thị trường
nội địa, kích thích các nhà sản xuất phát
triển và hoàn thiện.
-
Nếu các nhà sản xuất trong nước đă đủ
sức mạnh cạnh tranh với các nhà tư bản nước
ngoài th́ chính sách mậu dịch tự do giúp các nhà kinh
doanh bành trướng ra ngoài.
Thật
vậy, chính sách mậu dịch tự do lần đầu
tiên xuất hiện ở nước Anh, “cái nôi”
của chủ nghĩa tư bản. Nước Anh lúc
bấy giờ là cường quốc công nghiệp,
sản xuất bằng máy thay thế lao động
thủ công đă khiến cho chi phí thấp, hàng hóa
dồi dào so với các nước láng giềng chậm phát
triển hơn như Pháp, Đức, Nga. Chính nhờ
thực hiện chính sách mậu dịch tự do đă giúp
cho các nhà tư bản Anh xâm chiếm nhanh chóng thị trường
thế giới, khiến các nước khác phải thi hành
chính sách bảo hộ mậu dịch để chống
lại sự xâm lăng hàng hóa ồ ạt từ nước
Anh. Nhưng sau này khi nền kinh tế của Đức,
Pháp, Nga đă phát triển mạnh th́ chính sách mậu
dịch tự do thay thế cho chính sách bảo hộ
mậu dịch.
-
Thực hiện chính sách mậu dịch tự do không
đồng nghĩa
với việc làm suy yếu vai tṛ của Nhà nước
tư bản trong quan hệ thương mại quốc
tế. Ngược lại, việc tạo điều
kiện tự do phát triển thương mại trên
thị trường nội địa nhằm làm suy
yếu hoặc xóa bỏ chính sách bảo hộ mậu
dịch ở các nước khác, tạo cơ sở để
các nhà kinh doanh nội địa dễ dàng xâm nhập và
phát triển ở thị trường mới.
Nhược
điểm:
-
Thị trường trong nước điều tiết
chủ yếu bởi quy luật tự do cạnh tranh cho nên
nền kinh tế dễ rơi vào t́nh trạng khủng
hoảng, phát triển mất ổn định.
-
Những nhà kinh doanh sản xuất trong nước phát
triển chưa đủ mạnh, th́ dễ dàng bị phá
sản trước sự tấn công của hàng hóa nước
ngoài.
Chính
bởi những nhược điểm này mà ngày nay trên
thế giới, ngay cả những nước có nền
kinh tế mạnh nhất như
Mỹ, Nhật đều
không thực hiện chính sách mậu dịch tự do
đối với tất cả các ngành hàng, mà chỉ
thực hiện sự tự do mậu dịch trong một
số ngành hàng đủ mạnh, cạnh tranh được
với hàng hóa nước ngoài và cũng chỉ thực
hiện trong một thời gian nhất định.
1.3-
Các khoản lợi và hiệu quả của mậu
dịch tự do theo kinh tế học:
Trong
chương 3 chúng ta đă phân tích tác động của
một trong những công cụ chính sách ngoại thương
là thuế quan. Trong trường hợp một nước
nhỏ không gây ảnh hưởng đến giá xuất
khẩu của nước ngoài, thuế quan gây nên
thiệt hại ṛng cho nền kinh tế được
đo bằng hai h́nh tam giác b và d (biểu đồ 3.2).
Thiệt hại này là do thuế quan đă làm lệch
lạc những khuyến khích kinh tế đối với
người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Ngược
lại, tự do mậu dịch sẽ loại bỏ
được những tổn thất này và tăng thêm
phúc lợi quốc gia.
Các
nhà nghiên cứu cũng đă cố gắng tính toán
tổng chi phí phải trả cho những lệch lạc do
thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu gây ra trong
một số nền kinh tế cụ thể. Phí tổn này
được tính theo % thu nhập quốc dân, đối
với Braxin (1966) là 9,5%; Mexico (1960) là 2,5% ; Mỹ (1983) là
0,26%.
Ngoài
ra, ở các nước nhỏ nói chung và các nước
đang phát triển nói riêng, nhiều nhà kinh tế
học c̣n chỉ ra rằng, tự do mậu dịch c̣n
nhiều cái lợi quan trọng không được tính
tới trong phân tích chi phí - lợi
ích thông thường, Ví dụ như lợi thế kinh
tế của qui mô sản xuất chẳng hạn, các
thị trường được bảo hộ không
chỉ chia nhỏ sản xuất trên phạm vi quốc
tế, mà bằng cách giảm cạnh tranh và tăng
lợi nhuận, chúng c̣n đẩy nhiều công ty gia
nhập ngành công nghiệp được bảo hộ.
Với việc gia tăng các công ty trong thị trường
nội địa nhỏ hẹp, quy mô sản xuất
của từng công ty sẽ trở nên không hiệu
quả. (Ví dụ như, do được bảo hộ
cao, các nhà máy đường trong nước ta mọc lên
rất nhiều, v́ vậy chỉ có khoảng 17/47 nhà máy
hoạt động được khoảng 50% công
suất!)
2- Chính sách bảo hộ mậu dịch |
2.1-
Khái niệm:
Chính
sách bảo hộ mậu dịch là chính sách ngoại thương
của các nước nhằm một mặt sử
dụng các biện pháp để bảo vệ thị trường
nội địa trước sự cạnh tranh
của hàng hóa ngoại nhập, mặt khác Nhà nước
nâng đỡ các nhà kinh doanh trong nước bành trướng
ra thị trường nước ngoài.
Đặc
điểm của chính sách bảo hộ mậu dịch là:
-
Nhà nước sử dụng những biện pháp thuế
và phi thuế : thuế quan, hệ thống thuế nội
địa, giấy phép xuất nhập khẩu, hạn
ngạch, các biện pháp kỹ thuật... để
hạn chế hàng hóa nhập khẩu.
-
Nhà nước nâng đỡ các nhà sản xuất
nội địa bằng cách giảm hoặc miễn
thuế xuất khẩu, thuế doanh thu, thuế lợi
tức, giá tiền tệ nội địa, trợ
cấp xuất khẩu...để họ dễ dàng bành trướng
ra thị trường nước ngoài.
2.2-
Ưu và nhược điểm của chính sách bảo
hộ mậu dịch:
Ưu
điểm:
-
Giảm bớt sức cạnh tranh của hàng nhập
khẩu.
-
Bảo hộ các nhà sản xuất kinh doanh trong nước,
giúp họ tăng cường sức mạnh trên thị
trường nội địa.
-
Giúp các nhà xuất khẩu tăng sức cạnh tranh
để xâm chiếm thị trường nước
ngoài.
-
Giúp điều tiết cán cân thanh toán của quốc gia,
sử dụng hợp lư nguồn ngoại tệ thanh toán
của mỗi nước.
Nhược
điểm:
Nếu bảo hộ thị trường nội địa
quá chặt chẽ sẽ:
-
Làm tổn thương đến sự phát triển thương
mại quốc tế sẽ dẫn đến sự cô
lập kinh tế của một nước đi ngược
lại xu thế của thời đại ngày nay là
quốc tế hóa đời sống kinh tế toàn
cầu.
-
Tạo điều kiện để phát triển sự
bảo thủ và tŕ trệ trong các nhà kinh doanh nội
địa, kết quả là mứcï bảo hộ kinh
tế ngày càng cao, càng làm cho sức cạnh tranh của các
ngành không c̣n linh hoạt, hoạt động kinh doanh và
đầu tư không mang lại hiệu quả. Đây
sẽ là nguy cơ cho sự phá sản trong tương lai
của các ngành sản xuất trong nước nếu
quốc gia này phải chịu áp lực cạnh tranh trên
thị trường thế giới và yêu cầu giảm hàng
rào thuế quan khi gia nhập WTO hoặc các khu vực
mậu dịch tự do trên thế giới.
-
Người tiêu dùng bị thiệt hại như hàng hóa
kém đa dạng, mẫu mă, kiểu dáng, chất lượng
hàng hóa kém cải tiến, giá cả hàng hóa đắt....
Việc
thi hành các chế độ quan thuế, hạn ngạch
nhập khẩu và các biện pháp chính sách mậu
dịch khác hầu hết là nhằm bảo vệ thu
nhập của các nhóm lợi ích đặc biệt....Các
nhà kinh tế học thường lập luận rằng,
bảo hộ mậu dịch sẽ giảm phúc lợi
quốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế, có một số cơ
sở lư thuyết cho thấy rằng các chính sách mậu
dịch tích cực đôi khi có thể làm tăng phúc
lợi của quốc gia nói chung. Bởi v́, theo biểu
đồ 3.2, đối với một nước lớn,
thuế quan sẽ làm giảm giá hàng nhập khẩu
ở nước ngoài, tạo ra một khoản lợi.
Nếu đem so sánh với giá phải trả do thi hành
thuế quan là làm lệch lạc các khuyến khích đối
với sản xuất và tiêu dùng, có khả năng, trong
một số trường hợp, lợi ích về điều
kiện mậu dịch của thuế quan lại lớn hơn
cái giá phải trả. Với
mộtü mức độ thuế quan đủ thấp, th́
lợi ích về điều kiện mậu dịch sẽ
phải lớn hơn cái giá phải trả. Đối
với một nước lớn, tỷ suất thuế
quan thấp, phúc lợi sẽ cao hơn
khi thi hành mậu dịch tự do. Và sẽ tồn
tại một mức thuế quan t0 tối ưu,
tại đó, lợi ích biên do điều kiện mậu
dịch được cải thiện bằng tổn
thất hiệu năng biên do sự lệch lạc trong
sản xuất và tiêu dùng. Với mức thuế suất
khác lớn hơn t0 , phúc lợi quốc gia sẽ
đi xuống.
Tóm
lại, chính v́ cả chính sách tự do mậu dịch và
chính sách bảo hộ mậu dịch đều có
những ưu điểm và nhược điểm cho nên
không một nước nào trên thế giới thi hành chính
sách này hay chính sách khác một cách tuyệt đối mà
sẽ duy tŕ chính sách mậu dịch tự do trong một
số ngành hàng đối với một số thị trường
trong một thời gian nhất định, c̣n một
số ngành khác thi hành chính sách bảo hộ mậu
dịch (với mức độ khác nhau) trên những
thị trường khác nhau.
B-
Phân loại theo mức độ tiếp cận của
nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế
thế giới
1-
Chính sách hướng nội (Inward Oriented Trade Policies):
Là
chính sách mà nền kinh tế ít có quan hệ với
thị trường thế giới, phát triển tự
lực cánh sinh bằng sự can thiệp tuyệt đối
của Nhà nước. Với mô h́nh này, nền kinh
tế thực hiện chính sách công nghiệp hóa thay
thế hàng nhập khẩu.
Ưu
điểm:
-
Thị trường nội địa được
bảo hộ chặt chẽ, nhờ đó mà nền công
nghiệp c̣n non yếu trong
nước có thể phát triển được trong
điều kiện không phải trực diện với
cạnh tranh; đặc biệt ở những nước
mà nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông
nghiệp và khai thác tài nguyên.
-
Là mô h́nh phát triển dựa vào nguồn tài lực bên
trong, cho nên mọi tiềm lực quốc gia được
huy động cao độ cho công cuộc phát triển
kinh tế.
-
Phát triển kinh tế trong nước ít chịu sự tác
động của thị trường thế giới, nên
tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy thấp
nhưng ổn định.
Nhược
điểm:
-
Hàng hóa sản xuất không mang tính cạnh tranh trên
thị trường quốc tế.
-
Nhiều ngành kinh tế của quốc gia phát triển không
có hiệu quả, v́ không phát triển dựa vào lợi
thế mà chỉ dựa vào nhu cầu của nền kinh
tế đóng cửa.
-
Mất cân đối trong cán cân thương mại, v́
nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu bị
hạn chế.
-
Vay nợ nước ngoài lớn, trả nợ khó khăn.
2-
Chính sách hướng ngoại (Outward
Oriented Trade Policies):
Là
chính sách mà nền kinh tế
lấy xuất khẩu làm động lực để phát
triển. Tham gia vào quá tŕnh phân công lao động khu
vực và quốc tế, chuyên môn hóa vào sản xuất
những sản phẩm mà quốc gia có lợi thế phát
triển, về thực chất, đây là chính sách
“mở cửa“ kinh tế để tham gia vào quá tŕnh
quốc tế hóa kinh tế toàn cầu. Và tùy điều
kiện phát triển kinh tế của mỗi nước mà
chính sách “mở cửa“ được lựa chọn
thực hiện khá đa dạng
như mô h́nh phát
triển mở cửa dần từng bước
hay mô h́nh phát
triển xuất khẩu dựa vào nguồn tài nguyên thiên
nhiên hoặc gia công sản phẩm sơ chế
hoặc mô h́nh phát
triển XK dựa vào lợi thế so sánh...
Ưu
điểm :
-
Tạo ra sự năng động trong sự phân công lao
động quốc tế:
Thật
vậy, chúng ta có thể thấy h́nh ảnh công nghiệp
hóa hướng về xuất khẩu của các nước
Đông và Đông Nam Châu Á trong 3 thập niên cuối
thế kỷ 20 trong ngành công nghiệp may, sản xuất
hàng điện và điện tử gia dụng. Lúc đầu
các ngành này phát triển ở Nhật Bản, sau đó giá
nhân công của Nhật đắt dần lên, các ngành thâm
dụng nhiều nhân công của Nhật mất dần
lợi thế và chuyển các ngành này sang Hàn Quốc, sau
đó là các nước ASEAN và ở Trung Quốc ở
những thập niên 80. Đến thập niên 90, các ngành
hàng này lại phát triển ở Việt Nam. Sự thay
đổi năng động trong phân công lao động
khu vực như vậy do làn sóng công nghiệp hóa lan
rộng làm cho thương mại giữa các nước tăng
mạnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao nhờ phát huy được lợi thế và thị
trường được mở rộng.
-
Chiến lược công nghiệp hóa hướng về
xuất khẩu làm cho nền kinh tế phát triển năng
động v́ các doanh nghiệp luôn trực diện
với cạnh tranh, sản phẩm và dịch vụ
của họ phải có khả năng đảm bảo
cạnh tranh (về chất lượng, giá cả...)
với các sản phẩm khác trên thế giới.
-
Mở cứ kinh tế tạo điều kiện cho
cạnh tranh phát triển, là động lực thúc đẩy
cải tổ nền kinh tế, hợp lư hóa sản
xuất, đầu tư mới công nghệ.
-
Tăng cường thu hút vốn đầu tư, đẩy
mạnh xuất khẩu là nhân tố quan trọng
làm lành mạnh hóa môi trường tài chính quốc
gia: giảm bớt vay nợ, thực hiện cân bằng cán
cân thanh toán và cán cân buôn bán quốc tế.
-
Chính sách hướng về xuất khẩu c̣n được
xem như là một chính sách ngoại thương tạo
ra sự công bằng hơn trong nền kinh tế.
+
Đầu tiên, mở rộng xuất khẩu hàng thâm
dụng lao động đồng nghĩa với tăng
việc làm cho người lao động.
+
Thứ hai, chính sách này nâng cao khả năng chuyển sang
sản xuất hàng thâm dụng kỹ thuật.
+
Cuối cùng, việc áp dụng chính sách này làm nâng cao thu
nhập ṛng cho quốc gia bởi việc giảm tài
trợ giấy phép xuất khẩu...
Ngày
nay, khi xu hướng nhất thể hóa nền kinh tế
toàn cầu gia tăng, mô h́nh kinh tế hướng
ngoại đẩy mạnh xuất khẩu ngày càng
khẳng định ưu thế phát triển và ngày càng
được các nước áp dụng rộng răi.
IV- Chính sách ngoại thương
của các nước đang phát triển:
Ba
mươi năm sau cuộc Chiến tranh thế giới
lần thứ hai, chính sách thương mại ở các nước
đang phát triển vẫn c̣n bị ảnh hưởng sâu
sắc bởi lư thuyết cho rằng, ch́a khóa để
phát triển kinh tế là phải thúc đẩy công
nghiệp chế tạo và đó là cách tốt nhất
để bảo hộ công nghiệp chế tạo trong nước
trong sự cạnh tranh toàn cầu.
Chúng ta sẽ xem xét chính sách công nghiệp hóa thay
thế hàng nhập khẩu, giống như một
chiến lược của các nước đang phát
triển từ sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai đến những năm 1970 và sau đó
trở nên thất bại vào những năm cuối
thập kỷ 1980. Những vấn đề liên quan đến
chính sách kinh tế của các nước đang phát
triển có mức thu nhập thấp, hay những đặc
điểm tạo nên sự khác biệt trong thu nhập
giữa các vùng và khu vực, c̣n được gọi là
nền kinh tế “nhị nguyên”. Và đặc biệt,
trong việc xét đến chính sách thương mại
của các nước đang phát triển, không thể không
xét đến các chính sách đem lại sự phát
triển diệu kỳ của các nước Đông Á.
1-
Công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu:
Từ
sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến
những năm 1970, các nước đang phát triển
cố gắng đẩy
nhanh quá tŕnh phát triển bằng cách hạn chế
nhập khẩu sản phẩm công nghiệp và nâng đỡ
ngành công nghiệp chế
tạo để phục vụ thị trường trong nước.
Chiến lược này đă trở nên rất phổ
biến v́ nhiều lư do, trong đó, lư do quan trọng
nhất là lập luận về “nền công nghiệp non
trẻ”.
Theo
lập luận này, các nước đang phát triển có
một lợi thế tương đối tiềm tàng
trong công nghiệp chế tạo, nhưng các ngành công
nghiệp chế tạo mới h́nh thành trong nước không
thể cạnh tranh được với ngành công
nghiệp chế tạo được h́nh thành từ lâu
ở các nước phát triển. Để tạo điều
kiện cho khu vực công nghiệp chế tạo có
chỗ đứng, chính phủ tạm thời nâng đỡ
các ngành công nghiệp mới để nó lớn mạnh,
đủ đương đầu được với
cạnh tranh quốc tế. V́ vậy, việc sử
dụng thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu như
là những biện pháp tạm thời để bắt
đầu công nghiệp hóa là một việc có ư nghĩa.
Có một thực tế lịch sử là cả ba nền
kinh tế thị trường lớn nhất thế
giới đều bắt đầu quá tŕnh công
nghiệp hóa của ḿnh đằng sau hàng rào mậu
dịch: Mỹ và Đức có mức thuế quan cao đối
với hàng chế tạo vào thế kỷ XIX, trong khi
Nhật cho đến thập kỷ 1970 vẫn áp dụng
rộng răi biện pháp kiểm soát nhập khẩu.
Lập
luận về ngành công nghiệp non trẻ dường như
rất hợp lư và trên thực tế nó có tính chất
thuyết phục đối với nhiều chính phủ.
Thế nhưng các nhà kinh tế học đă chỉ ra
nhiều cạm bẫy trong lập luận này và
gợi ư rằng nó cần được sử dụng
một cách thận trọng.
Thứ
nhất, việc đi ngay vào các ngành công nghiệp có
lợi thế so sánh trong tương lai không phải luôn
luôn là ư tưởng tốt. Giả sử một nước
có dồi dào sức lao động đang trong quá tŕnh tích
lũy vốn, khi nó tích lũy đủ vốn, nó sẽ
có lợi thế so sánh trong các ngành tập trung vốn.
Điều đó không có nghĩa là nó phải cố
gắng phát triển ngay lập tức các ngành công
nghiệp đó.
Thứ
hai, việc bảo hộ công nghiệp chế tạo
sẽ không đem lại lợi lộc ǵ trừ khi
bản thân việc bảo hộ đó giúp cho ngành công
nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, đôi lúc, sự bảo hộ
lại không đạt được điều mong
muốn đó. Ví dụ như Pakistan và Ấn Độ
đă tiến hành bảo hộ khu vực công nghiệp
chế tạo trong hàng thập kỷ và khi họ bắt
đầu phát triển xuất khẩu th́ hàng hóa mà
họ xuất khẩu là những hàng công nghiệp
nhẹ như hàng dệt, chứ không phải là hàng công
nghiệp nặng mà họ bảo hộ.
Mặc
dù có những nghi ngờ về lập luận ngành công
nghiệp non trẻ, nhiều nước đang phát
triển vẫn coi lập luận này như là một lư
do bắt buộc để dành sự giúp đỡ đặc
biệt do việc phát triển các ngành công nghiệp
sản xuất hàng chế tạo. Chiến lược
khuyến khích công nghiệp trong nước bằng cách
hạn chế nhập khẩu hàng chế tạo được
gọi là công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu.
Thập
kỷ 1950 và 1960 đă chứng kiến cao trào của công
nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu. Các nước
đang phát triển thường bắt đầu
bằng việc bảo hộ các công đoạn cuối
của ngành, ví dụ như chế biến thực
phẩm và lắp ráp ôtô. Ở
các nước đang phát triển lớn hơn, sản
phẩm nội địa hầu như thay thế hoàn toàn
hàng tiêu dùng nhập khẩu (mặc dù sản xuất hàng
chế tạo thường do các công ty đa quốc gia
tiến hành). Một khi khả năng thay thế hàng tiêu
dùng nhập khẩu giảm đi, các nước này quay
sang bảo hộ hàng hóa trung gian như thân ôtô, thép,
sản phẩm hóa dầu.
Ở
hầu hết các nước đang phát triển xu
thế thay thế nhập khẩu đều dừng ở
giới hạn hợp lư: những hàng hóa chế tạo
tinh vi như máy tính, máy công cụ chính xác... tiếp
tục được nhập khẩu. Tuy nhiên, các nước
lớn hơn theo đuổi chiến lược công
nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu đă cắt
giảm nhập khẩu của họ xuống mức
thấp đáng kể. Thông
thường, qui mô kinh tế của một nước càng
nhỏ (tính theo giá trị tổng sản phẩm) th́ hàng
nhập khẩu và xuất khẩu chiếm tỷ lệ càng
lớn. Thế nhưng, như Ấn Độ chẳng
hạn, với thị trường trong nước nhỏ
thua 5% so với Hoa Kỳ mà mức xuất khẩu chỉ
chiếm khoảng 6% GNP năm 1983 và 8%
năm 1990 trong khi tương ứng của Hoa Kỳ
là 8 và 10% (Singapore và Hongkong tỷ lệ này năm
1990 là 190% và 137%)
Mặc
dù chiến lược công nghiệp hóa thay thế hàng
nhập khẩu đem lại cho các nước áp dụng
một tỷ lệ hàng công
nghiệp chế tạo trong tổng sản phẩm
quốc nội chiếm một phần bằng các nước
tiến tiến, như các nước Mỹ la tinh. Nhưng
do hạn chế nhập khẩu đă dẫn đến
kiềm hăm xuất khẩu (chương 3)
và làm chậm tốc độ phát triển kinh
tế. Ví dụ như Ấn độ, sau 20
năm theo đuổi chính sách này (1950 - 1970) thu
nhập b́nh quân đầu người chỉ tăng vài
%, cả Achentina, nước từng được xem là
một nước giàu, nền kinh tế cũng chỉ tăng
trưởng với tốc độ rất chậm trong hàng
thập kỷ.
Ngoài
những lư do đă được nêu ra về các cạm
bẫy của chiến lược công nghiệp
hóa thay thế hàng nhập khẩu, khi chính sách này
thất bại, các nhà kinh tế học c̣n đưa ra lư
do về “phí tổn” do
những lệch lạc trong bảo hộ hàng công
nghiệp mang lại. Ví dụ, mức bảo hộ
hữu hiệu một số ngành công nghiệp ở
Mỹ la tinh và Nam Á là hơn 200%. Chính tỷ lệ
bảo hộ cao này đă cho phép các ngành công nghiệp
tồn tại thậm chí ngay cả khi chi phí sản
xuất cao gấp ba hoặc bốn lần so với hàng
nhập khẩu mà chúng thay thế. Ngoài ra, sử dụng
hạn ngạch nhập khẩu để bảo hộ
sẽ dẫn đến phí “thuê hạn ngạch” và
một sự độc quyền. Sự cạnh tranh giành
lợi nhuận này dẫn đến nhiều công ty gia
nhập vào một thị trường mà thực tế
chỉ đủ chỗ cho một công ty và sản
xuất được tiến hành trên quy mô rất không
có hiệu quả... Một chi phí nữa cũng được
đề cập đến là việc hạn chế
nhập khẩu để thúc đẩy sản xuất
trong nước, nhưng với thị trường trong nước
nhỏ hẹp, qui mô sản xuất này cũng không có
hiệu quả.
Vào
cuối những năm 1980, những hạn chế của
chính sách công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu
càng bị chỉ trích, không những bởi các nhà kinh
tế mà c̣n là các tố chức quốc tế như Ngân
hàng Thế giới và ngay cả những nhà làm chính sách
của các nước áp dụng. Số liệu thống kê
đă chứng minh rằng, ở các nước đáng phát
triển theo đuổi chính sách thương mại
tự do hơn có tốc độ phát triển trung b́nh
nhanh hơn các nước theo chính sách bảo hộ.
Sự thực hiển nhiên này đă giúp các nước
đang phát triển tháo dỡ bớt hàng rào bảo
hộ của ḿnh bằng bỏ dần hạn ngạch và
giảm thuế quan.
2-
Chính sách công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu
và nền kinh tế nhị nguyên:
Trong
khi chính sách thương mại của các nước kém
phát triển, một phần bị phản đối
bởi sự tụt
hậu của họ khi so sánh với các nước phát
triển, chính sách này c̣n bị phản ứng
đối với sự phát triển không đồng
đều trong phạm vi từng nước.
Khi đó, một khu vực công nghiệp hiện
đại, sử dụng nhiều vốn, lương cao
tồn tại trong cùng một quốc gia với một khu
vực nông nghiệp truyền thống rất nghèo
khổ. Sự phân chia một nền kinh tế thống
nhất thành hai khu vực có mức độ phát
triển khác nhau được gọi là t́nh trạng
“hai khu vực” của nền kinh tế, và nền kinh
tế như vậy được gọi là nền kinh
tế “nhị nguyên”.
Các
dấu hiệu của nền kinh tế nhị nguyên:
(1)
Giá trị sản phẩm tính theo đầu công nhân
ở khu vực hiện đại cao hơn nhiều so
với khu vực c̣n lại của nền kinh tế.
Ở hầu hết các nước đang phát triển,
sản phẩm do một công nhân trong khu vực công
nghiệp làm ra có giá trị cao hơn vài lần so với
sản phẩm của một công nhân trong nông nghiệp.
Đôi khi sự khác biệt này lên tới 15/1.
(2)
Cùng với giá trị sản phẩm tính theo đầu
công nhân cao là mức lương cao. Lương công nhân
trong công nghiệp có thể cao hơn 10 lần so với
lao động trong nông nghiệp.
(3)
Tuy nhiên, trong khu vực công nghiệp, mặc dù lương
cao, lợi tức của đồng vốn không nhất
thiết cao hơn. Trên thực tế, dường như
thường là trong khu vực công nghiệp vốn
đưa lại lợi tức thấp hơn.
(4)
Giá trị sản phẩm tính theo đầu công nhân
cao tại khu vực hiện đại ít nhất một
phần là do sự tập trung vốn cao hơn trong
sản xuất. Công nghiệp chế tạo tại các nước
kém phát triển thường sử dụng vốn cao hơn
nhiều so với nông nghiệp (ở các nước tiên
tiến th́ trái lại, nông nghiệp lại là ngành
sử dụng nhiều vốn). Tại các nước
đang phát triển, nông dân thường sử dụng các
công cụ thô sơ, trong khi các cơ sở công nghiệp
tại đây lại chẳng khác mấy so với các nước
tiên tiến.
(5)
Cuối cùng, nhiều nước kém phát triển có
vấn đề thất nghiệp thường xuyên. Đặc
biệt tại các khu vực đô thị có một
số lượng lớn những người hoặc không
có việc làm, hoặc thỉnh thoảng mới có
việc làm được trả lương đặc
biệt thấp. Những người thành thị không có
việc làm này cùng tồn
tại với tầng lớp công nhân công nghiệp thành
thị được trả lương tương đối
cao.
Chính
sách ngoại thương thường bị cáo buộc
tội là nguyên nhân làm tăng chênh lệch về lương
giữa công nghiệp và nông nghiệp và khuyến khích
tập trung vốn quá mức vào công nghiệp. Sự khác
biệt về lương này cũng phản ánh sức
mạnh độc quyền của các ngành công nghiệp
được che chở bởi các hạn ngạch
nhập khẩu hay mức
thuế quan cao trước sự cạnh tranh của nước
ngoài.
3- Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu : “Sự diệu kỳ Đông Á” |
:
Nếu
như thập niên 1950-1960
chứng kiến cao trào công nghiệp hóa thay thế hàng
nhập khẩu, th́ bắt đầu cuối những năm
1960 đă xuất hiện một chính sách công nghiệp hóa
mới, hướng ra xuất khẩu sản phẩm
chế tạo. Một nhóm các quốc gia phát triển theo
định hướng này đă đạt tốc độ
phát triển cao về kinh tế, có nước đạt
hơn 10%/năm, mà Ngân hàng Thế giới gọi là
“những nền kinh tế hiệu
quả cao Châu Á” (High Performance Asian Economies
HPAEs).
Trong khi những thành tựu của HPAEs không được nhân lên mà cũng không có một câu hỏi nào về sự thành công của HPEAs đă bác bỏ luận cứ trước kia cho rằng phát triển công nghiệp phải đi bằng con đường thay thế hàng nhập khẩu, mà thành tựu này lại trở thành chủ đề tranh luận về “sự diệu kỳ Đông Á”. Đặc biệt, qua nhiều quan sát khác nhau đă chỉ ra rằng có nhiều cách diễn giải khác nhau về vai tṛ của những chính sách của chính phủ, bao gồm cả chính sách thương mại, đă là tiền đề cho sự phát triển kinh tế. Các quan sát này cũng chứng minh được rằng, sự thành công của kinh tế Châu Á liên quan rất nhiều đến thương mại tự do và sự tác động của chính sách chính phủ; mặt khác, sự thành công này cũng lại chứng tỏ sự can thiệp của chính phủ vào chính sách thương mại là có hiệu lực.
3.1-
Sự kiện tăng trưởng kinh tế Châu Á :
Ngân
hàng Thế giới chia các nước HPAEs thành ba nhóm khác
nhau bởi “sự diệu kỳ” bắt đầu
ở những thời điểm khác nhau. Đầu tiên
là Nhật Bản, tốc độ phát triển kinh
tế nhanh bắt đầu không bao lâu sau Thế
Chiến Thứ Hai và bây giờ, thu nhập b́nh quân đầu
người của Nhật Bản tương
đương Mỹ và các nước EU. Vào những năm
1960 tốc độ kinh tế phát triển nhanh bắt
đầu ở bốn nước Châu Á nhỏ hơn và
thường được gọi là “bốn con hổ
Châu Á”, đó là Hồng Kông, Đài Loan, Nam Triều Tiên
và Singapore. Vào cuối những năm 1970 và
những năm 1980 tốc độ kinh tế lại
phát triển rất nhanh bắt đầu ở Malaysia,
Thailand, Indonesia và ngoạn
mục nhất là Trung Quốc.
Mỗi
nhóm nước đều đạt thành tựu cao
bởi tốc độ phátï triển kinh tế. Thu
nhập quốc nội của
các “con rồng” tăng b́nh quân 8-9% một năm từ
giữa những năm 1960 cho đến 1997 xảy ra
khủng hoảng tiền tệ
Châu Á, trong khi Mỹ và EU chỉ tăng 2-3%/năm.
Tốc độ phát triển kinh tế của Châu Á
vẫn c̣n tiếp tục được đem ra so sánh
với các nước khác và Trung Quốc là một ví
dụ điển h́nh, trong suốt thập niên 1990 và ngay
bây giờ cũng vậy, tốc độ tăng GDP
của Trung Quốc là khoảng 10%/năm.
Ngoài
tốc độ phát triển kinh tế cao, các nước
HPEAs c̣n đạt được một thành tựu tiêu
biểu khác, đó là mở cửa hội nhập vào thương
mại quốc tế và càng về sau, mức độ
hội nhập càng cao hơn. V́ vậy , trong phát triển
kinh tế, các nước Châu Á hướng
về xuất khẩu nhiều hơn các nước
đang phát triển khác như Châu Mỹ la tinh và các nước
Nam Á. Sự “hướng về xuất khẩu” của
các nước Châu Á trong
thập niên 90 cao hơn so với các nước khác có
thể nhận thấy được qua bảng 4.1,
bảng tỷ lệ xuất khẩu
so với thu nhập quốc dân
của một số nước tiêu biểu.
Bảng
4.1 Tỷ lệ Xuất
khẩu so với thu
nhập quốc dân (1990)
Nước |
Tỷ
lệ xuất khẩu so với thu nhập quốc dân
(%) |
Brazil |
7 |
Ấn
độ |
8 |
Hoa
kỳ |
10 |
Nhật |
11 |
Tây
Đức |
32 |
Nam
Triều Tiên |
32 |
Hồng
Kông |
137 |
Singapore |
190 |
(Nguồn:
International Economics trang 259)
2.2-
Chính sách thương mại trong các nước HPAEs:
Một
vài nhà kinh tế học cho rằng thành công của các nước
Đông Á tượng trưng cho chính sách ngoại thương
hướng ngoại. Xuất khẩu và nhập khẩu
chiếm tỷ lệ cao trong GDP của các nước Châu
Á là một minh chứng cho chính sách này. Mặc dù chính sách
này chưa tương ứng với chính sách thương
mại tự do hoàn toàn, tuy nhiên, nó đă tự do hơn
rất nhiều so với các nước đang phát
triển chủ trương hạn chế nhập khẩu
làm động lực phát triển. Và tốc độ phát
triển cao giống như phần thưởng cho chính sách
thương mại mở cửa của họ.
Tuy
nhiên, nhiều nhà kinh tế học khác không đồng ư
với quan điểm cho rằng tốc độ phát
triển thương mại cao của các nước HPEAs
có quan hệ mật thiết với thương mại tư
do, ngoài trừ Hồng Kông, nước có chính sách thương
mại tự do nhất, các HPAEs c̣n lại đều duy
tŕ một mức thuế quan, hạn ngạch, trợ
cấp xuất khẩu và các chính sách của chính phủ
để quản lư thương mại.
Xuất nhập khẩu tăng cao cũng không
nhất thiết phải nhờ đến thương
mại tự do, như Thái Lan chẳng hạn, xuất
nhập khẩu tăng vọt vào những năm 1990 là
nhờ chính sách thu hút đầu tư của các công ty
đa quốc gia, chính sự đầu tư này là
tiền đề cho xuất khẩu và nhập khẩu. Và
nhờ vào các con số thống kê, họ chứng minh
được rằng, với một tỷ lệ bảo
hộ mậu dịch thấp hơn nhiều so với các
nước đang phát triển khác đă góp phần cho các
HPAEs đạt được sự phát triển diệu
kỳ. Tỷ lệ bảo hộ mậu dịch của các
HPAEs thấp hơn các nước khác được
thể hiện qua bảng 4.2 như sau:
Bảng
4.2 Tỷ lệ bảo
hộ mậu dịch trung b́nh của một số nước
(1985).
Nước |
Tỷ
lệ bảo hộ mậu dịch trung b́nh (%) |
HPAEs |
24 |
Các
nước Châu Á khác |
42 |
Nam
Mỹ |
46 |
Một
số nước Châu Phi |
34 |
(Nguồn:
International Economics, trang 268)
3.3-
Kinh nghiệm phát triển xuất khẩu các nước
ASEAN :
Nghiên
cứu chính sách ngoại thương hướng về
xuất khẩu của các nước ASEAN từ những
năm 1970 đến nay ta có
thể đưa ra các đánh giá cơ bản sau:
(1)
Tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu của các nước
ASEAN biến động theo hướng:
-
Giảm dần tỉ trọng xuất khẩu những hàng
hóa xuất khẩu dưới dạng thô ít qua chế
biến. Ví dụ, qua bảng 4.3, ta nhận thấy
rằng, như Thái Lan chẳng hạn, những năm 1960
hàng hóa chưa qua chế biến chiếm 98% kim ngạch
xuất khẩu nhưng đến thập niên 1990, tỷ
lệ này chỉ c̣n là 33%.
Bảng
4.3:. Thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu
của các nước ASEAN giai đoạn 1960-1990
Tên
nước |
Hàng
hóa chưa qua chế biến (%) |
Hàng
hóa đă qua chế biến (%) |
||||||
1960 |
1970 |
1980 |
1990 |
1960 |
1970 |
1980 |
1990 |
|
Singapore |
74 |
70 |
27 |
22 |
26 |
30 |
73 |
78 |
Indonesia |
99 |
98 |
64 |
53 |
1 |
>1 |
36 |
47 |
Malaysia |
94 |
93 |
56 |
39 |
6 |
>6 |
44 |
61 |
Philippines |
96 |
93 |
48 |
27 |
4 |
>6 |
52 |
73 |
Thái
Lan |
98 |
94 |
36 |
33 |
2 |
>5 |
64 |
67 |
(Nguồn:
Tư liệu về các nước ASEAN 1997)
-
Tăng nhanh tỉ trọng hàng công nghiệp chế
biến trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong ngành
hàng công nghiệp chế biến th́: thực hiện
giảm dần tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu
những sản phẩm có hàm lượng lao động
cao, mà nâng dần tỉ trọng xuất khẩu hàng hóa
cao cấp có hàm lượng tư bản và công nghệ
cao như sản phẩm của ngành hóa chất, chế
tạo máy móc trang thiết bị.
Cũng lấy Thái Lan làm ví dụ, những năm
1970, mặt hàng công nghiệp chỉ chiếm 5% trong
tổng kim ngạch xuất khẩu. Đến thập niên
1990, tỷ trọng hàng công nghiệp đă chiếm
tới 71,38% kim ngạch xuất khẩu (bảng 4.4). Các nước
ASEAN khác như Singapore, Indonesia, Malaysia và Philippines cũng có
sự thay đổi tương tự về tỷ lệ
hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu
từ thập niên 1970 đến 1990 (bảng 4.4).
Bảng
4.4: Tỉ trọng hàng công
nghiệp trong kim ngạch xuất khẩu của các nước
ASEAN
Đơn
vị tính: %.
Tên
nước |
1970
|
1981
|
1991
|
1996
|
Indonesia |
1,2 |
2,9 |
42 |
55,78 |
Malaysia |
6,3 |
19,5 |
58,9 |
82,8 |
Philippines |
6,4 |
22,8 |
69,72 |
70,1 |
Thái
Lan |
5 |
24,8 |
74,7 |
71,38 |
Singapore |
28 |
41,1 |
57,2 |
85 |
(Nguồn:
Tư liệu về các nước ASEAN 1997)
Nguyên
nhân dẫn đến sự thay đổi cơ cấu hàng
xuất khẩu của các nước ASEAN có thể lư
giải như sau:
+
Hàng chưa qua chế biến nên giá trị xuất
khẩu thấp, tỉ lệ hao hụt, hư hỏng
lại cao, đặc biệt xuất khẩu nông sản
vốn là thế mạnh trong những ngày đầu phát
triển các nước ASEAN.
+
Hàng chưa qua chế biến không cho phép sử dụng
nhiều nhân công lao động vốn là lợi thế
của ASEAN.
+
Hàng sơ chế chỉ thường xuất khẩu qua các
thị trường trung gian, sau đó tái chế mới
xuất khẩu được sang các thị trường
cao cấp cho nên trị giá hàng xuất khẩu càng
thấp.
+
Cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật đă
lôi kéo các nước ASEANvào cuộc, giúp cho các nước
mau chóng đầu tư máy móc và công nghệ cho phát
triển ngành công nghiệp chế biến sản phẩm
và chế tạo thiết bị máy móc.
+
Đồng Yên Nhật liên
tục lên giá thời kỳ 60-96, giá nhân công liên tục
tăng cho nên Nhật đấu tư mạnh mẽ ra nước
ngoài, trong đó có các nước ASEAN để phát
triển những ngành công nghiệp chế biến sử
dụng nhiều nhân công như: công nghiệp dệt, may
mặc, lắp ráp hàng điện tử, đồ gia
dụng...
+
Giá cả xuất khẩu nông sản thường xuyên
biến động, đặc biệt như sự
sụt giá liên tục của một số sản phẩm
thô diễn ra ở thời kỳ 1960-1970 như đay, mía
đường, các loại rau quả... khiến cho các nước
ASEAN quyết tâm thay đổi cơ cấu hàng xuất
khẩu của ḿnh theo hướng công nghiệp hóa
Việc
sớm mở cửa thị trường và thực
hiện chính sách “hướng về xuất khẩu”
đă giúp năm nước ASEAN trong nhóm ASEAN - 6 (trừ
Bruney, quốc gia chưa đến 1 triệu dân nhưng có
thế mạnh đặc thù về xuất khẩu tài
nguyên thiên thiên là dầu mỏ) thay đổi cơ
cấu kinh tế quốc gia, nâng dần tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong tổng GDP. Cho đến
cuối thập niên 90, năm nước ASEAN trong nhóm ASEAN
- 6 kể trên đă có một “cơ cấu kinh tế khá
lư tưởng” (bảng 4.5).
Bảng
4.5: Cơ cấu kinh tế của các nước ASEAN 1997
Đơn
vị tính: %
Nước |
Nông
nghiệp (% GDP) |
Công
nghiệp (% GDP) |
Dịch
vụ (% GDP) |
Myanmar |
59 |
10 |
31 |
Lào |
52 |
21 |
26 |
Cambodia |
51 |
15 |
34 |
Việt
Nam |
33 |
27 |
40 |
Philippines |
19 |
32 |
49 |
Indonesia |
16 |
43 |
41 |
Malaysia |
12 |
47 |
41 |
Thailand |
11 |
40 |
49 |
Singapore |
0 |
35 |
65 |
(Nguồn: Kinh tế thế giới số 3/2001)
Việc
thay đổi cơ cấu kinh tế này đă giúp các
quốc gia khai thác được lợi thế so sánh của ḿnh đồng
thời gia tăng sản xuất các ngành hàng có giá
trị gia tăng cao, chính điều này lại thúc đẩy
nhanh quá tŕnh phát triển. Điều đó cũng
được minh chứng ngay trong bảng 4.5, các nước
ASEAN c̣n lại có nền kinh tế kém phát triển hơn
như Myanmar, Lào, Cambodia, Việt Nam, cơ cấu kinh
tế c̣n quá nặng về sản xuất nông nghiệp,
một ngành sản xuất có giá trị gia tăng
thấp.
(2)
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của
các nước ASEAN là các nước công nghiệp phát
triển:
Thị
trường xuất khẩu quan trọng nhất của các
nước ASEAN là thị trường các nước
thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế (OECD), đặc biệt là thị trường Mỹ, Canada, EU và
Nhật Bản. Đây là những thị trường
tạo điều kiện cho nền kinh tế của các
nước ASEAN cất cánh.
Qua
bảng 4.6 ta thấy, thị trường Mỹ, EU,
Nhật chiếm trên dưới
60% tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng công nghiệp của các nước
ASEAN* này (ASEAN*: Malaysia, Thái Lan, Philippines và Indonesia).
Bảng
4.6: Thị trường xuất khẩu chủ yếu hàng
công nghiệp của một số nước ASEAN
Đơn
vị tính: %
Thị
trường |
1985 |
1990 |
1994 |
|
|
Nhật
|
10,6 |
12,7 |
11,6 |
||
EU |
20,8 |
21,1 |
16,5 |
||
Mỹ |
30,0 |
25,8 |
24,7 |
||
Cộng
Mỹ, Nhật, EU |
61,4 |
59,6 |
52,8 |
||
ASEAN |
3,5 |
3,3 |
4,1 |
||
Các
nước khác |
35,1 |
37,1 |
43,1 |
||
Với
toàn thế giới |
100,0 |
100,0 |
100,0 |
||
|
|
|
|
(Nguồn:
Tư liệu về các nước ASEAN 1997)
Nói
chung trên cả thị trường xuất khẩu lẫn
nhập khẩu, tỷ trọng buôn bán với các nước
thuộc OECD của các nước ASEAN, cũng cao hơn.
Nh́n vào bảng 4.6B ta thấy các nước được
liệt kê trong giao thương bên ngoài ASEAN những năm
1996-1997 hầu như là các nước thành viên OECD
(trừ Trung Quốc, Nga và Ấn Độ).
Nguyên
nhân:
+
Các nước OECD thường cho các nước ASEAN hưởng
chế độ thuế quan đặc biệt thấp.
+
Khả năng tiêu thụ và khả năng thanh toán
của các nước OECD rất lớn.
+ Khi xuất khẩu sang các nước OECD dễ dàng
nhập khẩu máy móc, công nghệ tiên tiến phục
vụ cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại
hóa ở các nước ASEAN.
Bảng
4.7: Giao dịch thương mại
giữa ASEAN và các nước 1996-1997 (triệu USD).
Nước |
ASEAN
xuất khẩu đến |
ASEAN
nhập khẩu từ |
Tỷ
lệ xuất khẩu (%) |
Tỷ
lệ nhập khẩu (%) |
||||
1996 |
1997 |
1996 |
1997 |
1996 |
1997 |
1996 |
1997 |
|
Bênngoài
ASEAN |
192.882,3
|
212.453,9
|
228.739,8
|
238.320,5
|
59,6
|
62,0
|
65,2
|
66,9
|
EU |
46.926,0
|
46.086,7
|
57.380,5
|
51.009,8
|
14,5
|
13,4
|
16,4
|
14,3
|
Mỹ |
59.515,5
|
70.030,4
|
53.011,4
|
61.695,0
|
18,4
|
20,4
|
15,1
|
17,3
|
Úc |
6.106,0
|
6.418,4
|
8.688,8
|
7.963,9
|
1,9
|
1,9
|
2,5
|
2,2
|
New
Zealand |
812,5
|
773,8
|
1.150,8
|
1.297,1
|
0,3
|
0,2
|
0,3
|
0,4
|
Canda |
1.988,2
|
1.881,9
|
2.445,6
|
2.568,0
|
0,6
|
0,5
|
0,7
|
0,7
|
Nhật |
43.150,3
|
42.008,6
|
73.310,1
|
71.264,2
|
13,3
|
12,3
|
20,9
|
20,0
|
Trung
Quốc |
18.045,1
|
29.237,1
|
14.573,6
|
22.154,0
|
5,6
|
8,5
|
4,2
|
6,2
|
Nga |
3.169,2
|
876,1
|
2.040,9
|
1.115,6
|
1,0
|
0,3
|
0,6
|
0,3
|
Ấn
Độ |
3.722,8
|
4.473,2
|
2.843,8
|
4.395,5
|
1,2
|
1,3
|
0,8
|
1,2
|
Hàn Quốc |
9.446,7
|
10.667,8
|
13.294,4
|
14.857,4
|
2,9
|
3,1
|
3,8
|
4,2
|
|
||||||||
Nội
bộ ASEAN |
79.986,3
|
84.419,0
|
63.948,3
|
64.452,1
|
24,7
|
24,6
|
18,2
|
18,1
|
Brunei |
2.008,5
|
1.776,6
|
457,2
|
301,9
|
0,6
|
0,5
|
0,1
|
0,1
|
Indonesia |
2.264,9
|
2.833,4
|
2.914,5
|
2.874,2
|
0,7
|
0,8
|
0,8
|
0,8
|
Lào |
721,5
|
1.287,5
|
50,0
|
52,1
|
0,2
|
0,4
|
0,0
|
0,0
|
Malaysia |
25.130,8
|
27.131,0
|
25.716,5
|
25.459,2
|
7,8
|
7,9
|
7,3
|
7,2
|
Myanma |
1.368,3
|
1.590,7
|
493,9
|
344,3
|
0,4
|
0,5
|
0,1
|
0,1
|
Philippine |
4.360,1
|
5.672,4
|
2.637,2
|
3.285,6
|
1,3
|
1,7
|
0,8
|
0,9
|
Singapore |
28.071,7
|
25.880,3
|
19.492,1
|
19.234,4
|
8,7
|
7,6
|
5,6
|
5,4
|
Thái
Lan |
11.546,2
|
10.715,5
|
11.213,9
|
11.544,6
|
3,6
|
3,1
|
3,2
|
3,2
|
Việt
Nam |
4.514,4
|
7.531,8
|
973,0
|
1.355,9
|
1,4
|
2,2
|
0,3
|
0,4
|
Các
nước khác |
50.493,0
|
45.797,2
|
57.918,1
|
53.199,1
|
15,6
|
13,4
|
16,5
|
14,9
|
Tổng
cộng |
323.361,5
|
342.670,1
|
350,606.2
|
355,971.8
|
100,0
|
100,0
|
100.0
|
100.0
|
(Nguồn:
ASEAN Secretariat)
(3)
Nhà nước rất quan tâm đề ra những biện
pháp hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu:
Kim
ngạch xuất xuất của các nước ASEAN tăng
lên nhanh chóng, một trong những nguyên nhân chính là do Chính
phủ mỗi nước đề ra những chính sách có
hiệu quả để hỗ trợ và khuyến khích
xuất khẩu, cụ thể:
+
Phá giá đồng tiền nội địa để
khuyến khích xuất khẩu.
+
Trợ cấp xuất khẩu thông qua các h́nh thức:
giảm thuế nội địa cho các nhà xuất
khẩu, đầu tư cơ sở hạ tầng, các cơ
quan nghiên cứu hỗ trợ phát triển…
+
Nhà nước góp vốn và kêu gọi đầu tư nước
ngoài thành lập các khu chế xuất, khu công nghiệp
tập trung để đẩy mạnh phát triển các
ngành hàng xuất khẩu.
+
Chính phủ đẩy mạnh hoạt động đối
ngoại: thỏa thuận với các chính phủ nước
ngoài mở rộng thị trường, hạn ngạch
xuất khẩu qua các nước và các khu vực, xin hưởng
chế độ thuế quan ưu đăi, giúp các nhà
xuất khẩu nội địa tăng cường
sức mạnh cạnh tranh ở
nước ngoài.
+
Nhà nước phát triển hệ thống thông tin về
thị trường, đưa ra định hướng
phát triển các ngành hàng xuất khẩu giúp cho các nhà
kinh doanh và sản xuất hàng xuất khẩu xây dựng
chiến lược phát triển lâu dài.
Nhờ
những biện pháp tích cực kể trên
nên chỉ trong hai thập kỷ 70 và 80 mà các nước
ASEAN đă nâng tỉ trọng xuất khẩu trong tổng
sản phẩm quốc nội lên nhanh chóng và tiếp
tục phát triển trong thập kỷ 90. Bảng 4.7
thể hiện một cách rơ rệt sự gia tăng
tỷ lệ xuất khẩu so với tổng GDP của các
nước ASEAN:
Bảng
4.8: Tỉ lệ xuất
khẩu so với GDP của các nước ASEAN giai đoạn
1970-2000
Đơn
vị tính: (%)
Nước |
1970 |
1980 |
1990 |
1996 |
1997 |
1998 |
1999 |
2000 |
Brunei |
|
|
|
49,71 |
52,06 |
45,43 |
56,80 |
72,72 |
Cambodia |
|
|
|
20,30 |
27,76 |
32,00 |
32,54 |
37,86 |
Indonesia |
11,2 |
34,4 |
28,7 |
22,07 |
26,09 |
52,78 |
36,26 |
40,79 |
Lao PDR |
|
|
|
17,13 |
18,15 |
29,32 |
20,81 |
20,44 |
Malaysia |
39,8 |
56,0 |
69,9 |
76,33 |
77,17 |
98,97 |
106,19 |
109,83 |
Myanmar |
|
|
|
17,03 |
18,42 |
20,33 |
17,72 |
19,41 |
Philippines |
12,3 |
17,3 |
18,5 |
29,63 |
31,27 |
45,03 |
44,63 |
49,60 |
Singapore |
78,8 |
176,3 |
153,4 |
136,6 |
133,15 |
134,64 |
137,92 |
168,90 |
Thailand |
9,5 |
20,8 |
34,4 |
29,97 |
37,53 |
47,25 |
46,53 |
55,72 |
Việt Nam |
|
|
|
29,75 |
34,60 |
33,78 |
40,23 |
45,26 |
ASEAN |
19,0 |
40,0 |
49,9 |
46,93 |
51,80 |
70,10 |
65,51 |
73,32 |
(Nguồn: ASEAN Statistics Webmaster)