CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ KINH DOANH VÀ NHIỆM VỤ CHỦ YẾU CỦANHÀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
I. ĐỊNH NGHĨA DOANH NGHIỆP (DN)
IV. DOANH
NGHIỆP LÀ ĐƠN VỊ SẢN XUẤT VÀ PHÂN PHỐI
VI. MỤC
ĐÍCH VÀ MỤC TIÊU CỦA DOANH NGHIỆP
VII. THÀNH LẬP, GIẢI THỂ, PHA SẢN MỘT DOANH NGHIỆP
-
Sau khi nghiên cứu chương này người đọc có thể:
-
Hiểu định nghĩa về
doanh nghiệp, nắm được bản chất và đặc điểm của hệ
thống kinh doanh.
- Vai trò của hệ thống kinh doanh đối
với sự phát triển của nền kinh tế.
-
Các loại hình doanh nghiệp
-
Doanh nghiệp là đơn vị sản xuất và phân phối.
-
Môi trường hoạt động của doanh nghiệp
-
Mục đích và mục tiêu của doanh nghiệp
-
Thành lập, giải thể và phá sản doanh nghiệp
Hiện
nay trên phương diện lý thuyết có khá nhiều định nghĩa thế nào
là một doanh nghiệp, mỗi định nghĩa đều mang trong nó có một
nội dung nhất định với một giá trị nhất định. Điều ấy cũng
là đương nhiên, vì rằng mỗi tác giả đứng trên nhiều quan điểm
khác nhau khi tiếp cận doanh nghiệp để phát biểu.
Chẳng hạn:
1.1
Xét theo quan điểm luật pháp:
doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có con
dấu, có tài sản, có quyền và nghĩa vụ dân sự hoạt động kinh
tế theo chế độ hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động kinh tế trong phạm vi vốn đầu tư do doanh
nghiệp quản lý và chịu sự quản lý của nhà nước bằng các
loại luật và chính sách thực thi
1.2
Xét theo quan điểm chức năng:
doanh nghiệp được định nghĩa như sau: "Doanh nghiệp là một
đơn vị tổ chức sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các
yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của các yếu tố) khác
nhau do các nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị
trường những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được
khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản phẩm với giá thành
của sản phẩm ấy. (M.Francois Peroux).
1.3
Xét theo quan điểm phát triển
thì "doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra
những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có
những thành công, có lúc vượt qua những thời kỳ nguy kịch và
ngược lại có lúc phải ngừng sản xuất, đôi khi tiêu vong do
gặp phải những khó khăn không vượt qua được " (trích từ
sách " kinh tế doanh nghiệp của D.Larua.A Caillat - Nhà xuất
bản Khoa Học Xã Hội 1992 )
1.4
Xét theo quan điểm hệ thống
thì doanh nghiệp được các tác giả nói trên xem rằng " doanh
nghiệp bao gồm một tập hợp các bộ phận được tổ chức, có
tác động qua lại và theo đuổi cùng một mục tiêu. Các bộ
phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản
xuất, thương mại, tổ chức, nhân sự.
Ngoài
ra có thể liệt kê hàng loạt những định nghĩa khác nữa khi xem
xét doanh nghiệp dưới những góc nhìn khác nhau. Song giữa các định
nghĩa về doanh nghiệp đều có những điểm chung nhất, nếu tổng
hợp chúng lại với một tầm nhìn bao quát trên phương diện tổ
chức quản lý là xuyên suốt từ khâu hình thành tổ chức, phát
triển đến các mối quan hệ với môi trường, các chức năng và
nội dung hoạt động của doanh nghiệp cho thấy đã là một doanh
nghiệp nhất thiết phải được cấu thành bởi những yếu tố
sau đây:
*
Yếu tố tổ chức: một tập
hợp các bộ phận chuyên môn hóa nhằm thực hiện các chức năng
quản lý như các bộ phận sản xuất, bộ phận thương mại, bộ
phận hành chính.
*
Yếu tố sản xuất: các nguồn
lực lao động, vốn, vật tư, thông tin.
*
Yếu tố trao đổi: những dịch
vụ thương mại - mua các yếu tố đầu vào, bán sản phẩm
sao cho có lợi ở đầu ra.
*
Yếu tố phân phối: thanh toán
cho các yếu tố sản xuất, làm nghĩa vụ nhà nước, trích lập
quỹ và tính cho hoạt động tương lai của doanh nghiệp bằng
khoản lợi nhuận thu được.
Từ
cách nhìn nhận như trên có thể phát biểu về định
nghĩa doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có
tư cách pháp nhân, quy tụ các phương tiện tài chính, vật chất và
con người nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng,
tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi
ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hóa lợi của
chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu
xã hội.
-Doanh
nghiệp là một đơn vị tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân:
Tư
cách pháp nhân của một doanh nghiệp là điều kiện cơ bản
quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân, nó do Nhà nước khẳng định và xác định. Việc
khẳng định tư cách pháp nhân của doanh nghiệp với tư cách là
một thực thể kinh tế, một mặt nó được nhà nước bảo hộ
với các hoạt động sản xuất kinh doanh, mặt khác nó phải có trách
nhiệm đối với người tiêu dùng, nghĩa vụ đóng góp với nhà nước,
trách nhiệm đối với xã hội. Đòi hỏi doanh nghiệp phải chịu
trách nhiệm về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những
khoản công nợ khi phá sản hay giải thể.
-
Doanh nghiệp là một tổ chức sống trong một thể sống (nền kinh
tế quốc dân) gắn liền với địa phương nơi nó tồn tại.
-
Doanh nghiệp là một tổ chức sống vì lẽ nó có quá trình
hình thành từ một ý chí và bản lĩnh của người sáng lập (tư
nhân, tập thể hay Nhà nước); quá trình phát triển thậm chí có
khi tiêu vong, phá sản hoặc bị một doanh nghiệp khác thôn tính. Vì
vậy cuộc sống của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào chất lượng
quản lý của những người tạo ra nó.
-
Doanh nghiệp ra đời và tồn tại luôn luôn gắn liền với một
vị trí của một địa phương nhất định, sự phát triển cũng
như suy giảm của nó ảnh hưởng đến địa phương đó.
Theo
tiêu thức này doanh nghiệp được phân thành các loại: DN nhà nước, DN tư nhân, công ty, hợp tác xã (HTX)
1.1
Doanh nghiệp Nhà nước: là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư
vốn. Nhà nước - người đại diện toàn dân - tổ chức thực
hiện chức năng quản lý trên mọi mặt
hoạt động sản xuất kinh doanh kể từ khi thành lập cho đến
khi giải thể. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các
quyền và nghĩa vụ dân sự trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp
quản lý.
1.1.1
Khái niệm: Điều1 luật DNNN được Quốc hội thông qua ngày 20.4.1995 đã
nêu: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn thành
lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động
công ích nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội Nhà nước quy
định. Doanh nghiệp có tư cách hợp pháp có cách pháp nhân có các
quyền và nghĩa vụ dân sự, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt
động kinh doanh
1.1.2
Đặc điểm. Với
nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội và điều
tiết vĩ mô trong nền kinh tế thị trường đặt ra nhu cầu khách
quan về sự hình thành và tồn tại các DNNN. Quyền sở hữu tư
liệu sản xuất thuộc về Nhà nước, đó là đặc điểm thứ
nhất phân biệt DNNN với các doanh nghiệp khác, đồng thời hoạt
động kinh doanh là đặc điểm phân biệt DNNN với các tổ chức,
cơ quan khác của Chính phủ. DNNN được phân biệt các loại hình
doanh nghiệp khác bởi các đặc điểm sau đây: (bảng 1.1)
Bảng
1.1: So sánh DNNN với các
loại hình DN khác
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
|
CÁC
LOẠI HÌNH DN KHÁC |
-Cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập,
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đảm bảo tính định
hướng XHCN |
-
Cơ quan Nhà nước cho phép thành lập trên cơ sở đăng ký
kinh doanh của các chủ thể kinh doanh |
-Tài
sản là một bộ phận của tài sản Nhà nước, thuộc thuộc
sở hữu của Nhà nước (vì DNNN do Nhà nước đầu tư vốn
để thành lập). DNNN không có quyền sở hữu đối với tài
sản mà chỉ là người quản lý kinh doanh trên số tài sản
của Nhà nước (không có quyền sở hữu nhưng có quyền
chiếm hữu, định đoạt và sử dụng |
-
Chủ thể kinh doanh là chủ sở hữu đối với tài sản kinh
doanh của họ |
-
DNNN do Nhà nước tổ chức Bộ máy quản lý của doanh nghiệp
Nhà nước bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh
nghiệp, phê duyệt chiến lược, qui hoạch, kế hoạch... |
|
1.1.3
Thành lập và tổ chức xắp xếp lại DNNN: Để
thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quyết
định 388/HĐBT về thành lập lại các DNNN là biện
pháp đầu tiên thực hiện xắp xếp lại các DNNN.
Biện
pháp thứ hai, tiến hành cổ phần hóa các DNNN. Mục đích của
cổ phần hóa là nâng cao hiệu quả họat động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Ngoài cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
Đảng và Nhà nước còn chủ trương chuyển doanh nghiệp nhà nước
thành công ty trách nhiệm hữu hạn. Việc chuyển doanh nghiệp nhà
nước kinh doanh sang họat động theo cơ chế công ty trách nhiệm
hữu hạn hoặc công ty cổ phần và
bổ sung hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có một sáng
lập viên để áp dụng đối với doanh nghiệp kinh doanh 100% vốn
nhà nước thực chất là nội dung chủ yếu của công ty hóa.
Công ty hóa
doanh nghiệp nhà nước nhằm xác lập cơ chế phát huy động lực
lao động và quản lý doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở phát huy
quyền và trách nhiệm của các doanh nghiệp có phần vốn nhà nước
và tinh thần tích cực của người lao động tại doanh nghiệp nhà
nước; bảo đảm sự công bằng tương đối giữa người lao động
trong doanh nghiệp nhà nước với người lao động trong các hợp tác
xã cổ phần, doanh nghiệp nhà
nước cổ phần hóa; nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước
đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Biện
pháp thứ ba, là hình thành các tổ chức kinh tế mạnh đủ
sức cạnh tranh, hình thành những ngành kinh tế kỹ thuật, đảm
bảo thống nhất cân đối sản xuất, nhập khẩu, tiêu dùng, ngành
hàng trên phạm vi cả nước, đóng vai trò quan trọng trong các cân
đối xuất nhập khẩu, bảo đảm vật tư hàng tiêu dùng chủ
yếu, góp phần ổn định giá cả thị trường.
Các DNNN đang chiếm giữ
một vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước về sự tham
gia đóng góp và vai trò trong quản lý của nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN. Mô hình DNNN đang tiếp tục được nghiên
cứu cải tiến để hoạt động ngày càng có hiệu quả cao hơn, nâng
cao sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ trên thị trường,
giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
1.2
Doanh nghiệp hùn vốn:
là một tổ chức kinh tế mà vốn được đầu tư do các thành viên
tham gia góp vào và được
gọi là công ty. Họ cùng chia lời và cùng chịu lỗ tương ứng
với phần vốn đóng góp. Trách nhiệm pháp lý của từng hình
thức có những đặc trưng khác nhau. Theo Luật doanh nghiệp,
loại hình công ty có các loại: công ty hợp danh, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
1.2.1
Khái niệm Công ty.
“Công ty được hiểu là sự liên kết của 2 hoặc nhiều cá
nhân hoặc pháp nhân bằng sự kiện pháp lý, nhằm tiến hành để
đạt được mục tiêu chung nào đó" (theo KUBLER).
1.2.2
Đặc điểm công ty:
- Công ty phải do hai người
trở lên góp vốn để thành lập, những người này phải độc
lập với nhau về mặt tài sản.
- Những người tham gia
công ty phải góp tài sản như tiền, vàng, ngoại tệ, máy móc
thiết bị, trụ sở, bản quyền sở hưũ công nghiệp. Tất cả các
thứ do các thành viên đóng góp trở thành tài sản chung của công
ty nhưng mỗi thành viên vẫn có quyền sở hưũ đối với phần
vốn góp. Họ có quyền bán tặng, cho phần sở hưũ của mình.
Mục
đích việc thành lập công
ty là để kiếm lời chia nhau. Lợi nhuận của công ty được chia
cho những người có vốn trong công ty.
1.2.3
Các loại hình công ty ở
Việt Nam.
1.2.3.1
Công ty hợp danh.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên
hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp
vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn
và uy tín nghề nghiệp, phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty, không được đồng
thời là thành viên của công ty hợp danh khác hoặc chủ doanh
nghiệp tư nhân. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ cuả công ty trong phạm vi phần vốn
góp đã góp vào công ty.
Hội đồng thành viên gồm tất cả các thành viên hợp danh:
là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Trong quá trình hoạt
động, các thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhận các chức
trách quản trị và kiểm soát hoạt động của công ty, trong đó
cử một người làm giám đốc công ty
Thành viên góp vốn của công ty có quyền tham gia thảo luận
và biểu quyết những vấn đề quan trọng trong điều lệ công ty.
- Việc tiếp nhận thành viên mới: người được tiếp
nhận làm thành viên hợp danh mới hoặc thành viên góp vốn mới
khi được tất cả thành viên hợp danh của công ty đồng ý. Thành
viên hợp danh mới chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ cuả công
ty phát sinh sau khi đăng ký thành
viên đó với cơ quan đăng ký kinh doanh
- Việc rút khỏi công ty: thành viên hợp danh được quyền rút
khỏi công ty nếu được đa số thành viên hợp danh còn lại đồng
ý, nhưng vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ
của công ty. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho các thành viên
khác được tự do thực hiện
- Việc chấm dứt tư cách thành viên:
+ Nếu do thành viên tự rút vốn ra khỏi công ty hoặc bị
khai trừ khỏi công ty thì người đó phải liên đới chịu trách
nhiệm về nghĩa vụ của công ty đã phát sinh trước khi việc đăng
ký chấm dứt tư cách thành viên đó với cơ quan đăng ký kinh
doanh.
+ Nếu do thành viên đó chết hoặc bị hạn chế
mất năng lực hành vị dân sự thì công ty có quyền sử
dụng tài sản tương ứng với trách nhiệm của người đó để
thực hiện các nghĩa vụ của công ty.
1.2.3.2
Công ty trách nhiệm hữu
hạn (TNHH).
Là doanh nghiệp, trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng
chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp
và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty.
- Đặc
điểm:
+ Công ty TNHH có hai thành viên trở lên (Điều 26), thành viên
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh
nghiệp, nhưng không quá 50 thành viên.
+ Phần vốn góp của tất cả các thành viên dưới bất kỳ
hình thức nào đều phải đóng đủ ngay khi thành lập công ty.
Phần vốn góp của các
thành viên không được thể hiện dưới hình thức chứng khoán
(như cổ phiếu trong công ty cổ phần) và được ghi rõ trong điều
lệ của công ty.
+ Công ty TNHH không được phát hành cổ phiếu ra ngoài công
chúng để huy động vốn. Do đó khả năng tăng vốn của công ty
rất hạn chế.
+ Việc chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người
ngoài công ty bị hạn chế gắt gao. Việc chuyển nhượng vốn
chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của nhóm thành viên đại
diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
Trên mọi giấy tờ giao
dịch, ngoài tên công ty, vốn điều lệ của công ty phải ghi rõ các
chữ "Trách nhiệm hưũ hạn", viết tắt "TNHH".
+ Cơ cấu quản lý thường gọn nhẹ phụ thuộc vào số lượng
thành viên. Nếu công ty có từ 11 thành viên trở xuống cơ cấu
tổ chức quản trị gồm có hội đồng thành viên là cơ quan quyết định
cao nhất, Chủ tịch công ty và giám đốc (hoặc Tổng giám đốc)
điều hành.
Trường hợp công ty TNHH một thành viên là tổ chức (Điều
46) là doanh nghiệp do một tổ chức sở hữu - gọi tắt là chủ
sở hữu chịu trách nhiệm về các khỏan nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của công
ty. Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc
một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác.
Đối với loại công ty này thì không thành lập hội đồng thành
viên. Tùy thuộc quy mô, ngành, nghề kinh doanh cơ cấu tổ chức
quản lý bao gồm: Hội đồng quản trị và giám đốc (Tổng giám
đốc) hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc (Tổng giám đốc),
trong đó Chủ tịch là chủ sở hữu công ty và là người đại
diện theo pháp luật của công ty, có toàn quyền quyết định
việc quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.
Đối với công ty có 12
thành viên trở lên phải lập thêm ban kiểm soát.
Thuận lợi và khó khăn
của công ty TNHH
+ Thuận lợi:
i
Có nhiều chủ sở hữu hơn DNTN nên có thể có nhiều vốn hơn, do
vậy có vị thế tài chính tạo khả năng tăng trưởng cho doanh
nghiệp.
i Khả
năng quản lý toàn diện do có nhiều người hơn để tham gia điều
hành công việc kinh doanh, các thành viên vốn có trình độ kiến
thức khác nhau, họ có thể bổ sung cho nhau về các kỹ năng quản
trị.
iTrách
nhiệm pháp lý hữu hạn.
+ Khó
khăn:
i Khó
khăn về kiểm soát: Mỗi thành viên đều phải chịu trách nhiệm
đối với các quyết định của bất cứ thành viên nào trong công
ty. Tất cả các hoạt động dưới danh nghĩa công ty của một thành
viên bất kỳ đều có sự ràng buộc với các thành viên khác
mặc dù họ không được biết trước. Do đó, sự hiểu biết và
mối quan hệ thân thiện giữa các thành viên là một yếu tố
rất quan trọng và cần thiết, bởi sự ủy quyền giữa các thành
viên mang tính mặc nhiên và có phạm vi rất rộng lớn
i
Thiếu bền vững và ổn định, chỉ cần một thành viên gặp
rủi ro hay có suy nghĩ không phù hợp là công ty có thể không còn
tồn tại nữa; tất cả các hoạt động kinh doanh dễ bị đình
chỉ. Sau đó nếu muốn thì bắt đầu công việc kinh doanh mới, có
thể có hay không cần một công ty TNHH khác.
i Công
ty TNHH còn có bất lợi hơn so với DNTN về những điểm như phải
chia lợi nhuận, khó giữ bí mật kinh doanh và có rủi ro chọn
phải những thành viên bất tài và không trung thực.
1.2.3.3
Công ty cổ phần.
Khái niệm và đặc điểm:Công
ty cổ phần là công ty trong đó:
+
Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong
suốt thời gian hoạt động ít nhất là ba.
+ Vốn cuả công ty được
chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần và được thể
hiện dưới hình thức chứng khoán là cổ phiếu. Người có cổ
phiếu gọi là cổ đông tức là thành viên công ty.
+ Khi thành lập các sáng lập viên (những người có sáng
kiến thành lập công ty chỉ cần phải ký 20% số cổ phiếu dự tính
phát hành), số còn lại họ có thể công khai gọi vốn từ những
người khác.
+ Công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu và trái
phiếu ra ngoài công chúng, do đó khả năng tăng vốn của công ty
rất lớn.
+ Khả năng chuyển nhượng vốn của các cổ đông dễ dàng.
Họ có thể bán cổ phiếu của mình một cách tự do.
+ Công ty cổ phần thường có đông thành viên (cổ đông) vì
nó được phát hành cổ phiếu, ai mua cổ phiếu sẽ trở thành
cổ đông.
Tổ chức quản lý công ty cổ phần:
Công
ty cổ phần là loại công ty thông thường có rất nhiều thành viên
và việc tổ chức quản lý rất phức tạp, do đó phải có một cơ
chế quản lý chặt chẽ. Việc quản lý điều hành công ty cổ
phần được đặt dưới quyền của 3 cơ quan: - Đại hội đồng
cổ đông; - Hội đồng quản trị; - Ban kiểm soát .
+ Đại hội đồng cổ đông:
Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có thẩm quyền quyết
định cao nhất của công ty gồm tất cả các cổ đông. Cổ đông
có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia đại hội đồng công
ty. Là cơ quan tập thể, đại hội đồng không làm việc thường
xuyên mà chỉ tồn tại trong thời gian họp và chỉ ra quyết định
khi đã được các cổ đông thảo luận và biểu quyết tán thành.
Đại
hội đồng cổ đông: được triệu tập để thành lập công ty.
Luật không quy định Đại hội đồng cổ đông phải họp trước
hay sau khi có giấy phép thành lập nhưng phải tiến hành trước
khi đăng ký kinh doanh. Đại hội đồng thành lập hợp lệ phải có
nhóm cổ đông đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của
công ty và biểu quyết theo đa số phiếu quá bán.
* Đại hội đồng bất thường: là đại hội chỉ được
triệu tập để sửa đổi điều lệ công ty.
Tính bất thường của Đại hội nói lên rằng đại hội sẽ
quyết định những vấn đề rất quan trọng.
* Đại hội đồng thường niên: được tổ chức hàng năm.
Đại hội đồng thường niên quyết định những vấn đề chủ
yếu sau:
·
Quyết định phương hướng,
nhiệm vụ phát triển công ty và kế hoạch kinh doanh hàng năm.
·
Thảo luận và thông qua bản
tổng kết năm tài chính.
·
Bầu, bãi miễn thành viên HĐQT và
kiểm soát viên.
·
Quyết định số lợi nhuận trích
lập các quỹ của công ty số lợi nhuận chia cho cổ đông, phân
chia trách nhiệm về các thiệt hại xảy ra đối với công ty trong
kinh doanh.
·
Quyết định các giải pháp lớn
về tài chính công ty.
·
Xem xét sai phạm của HĐQT gây
thiệt hại cho công ty.
+ Hội đồng quản trị: (HĐQT)
HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có từ 3-12 thành viên, số
lượng cụ thể được ghi trong điều lệ công ty.
HĐQT có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi
vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty trừ
những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng. HĐQT
bầu một người làm chủ tịch, chủ tịch HĐQT có thể kiêm Giám
đốc (Tổng giám đốc công ty) hoặc HĐQT cử một người trong
số họ làm Giám đốc hoặc thuê người làm Giám đốc công ty.
+ Ban kiểm soát :
Công ty cổ phần có trên mười
một cổ đông phải có ban kiểm soát từ ba đến năm thành viên.
Kiểm soát viên thay mặt các cổ đông kiểm soát các hoạt
động của công ty, chủ yếu là các vấn đề tài chính. Vì vậy
phải có ít nhất một kiểm soát viên có trình độ chuyên môn
về kế toán. Kiểm soát viên có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
- Kiểm soát sổ sách kế toán tài sản, các bảng tổng kế
năm tài chính của công ty và triệu tập Đại hội đồng khi cần
thiết;
- Trình Đại hội đồng báo cáo thẩm tra các bảng tổng
kết năm tài chính cuả công ty;
- Báo cáo về sự kiện tài chính bất thường xảy ra về
những ưu khuyết điểm trong quản lý tài chính cuả HĐQT.
Các kiểm soát viên chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng
và không được kiêm nhiệm là thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc là
người có liên quan trực hệ ba đời với họ.
Như vậy tổ chức công ty có sự phân công các chức năng
cụ thể cho từng cơ quan khác nhau, giám sát lẫn nhau trong mọi công
việc.
- Thuận lợi khó khăn của công
ty cổ phần
+ Thuận lợi:
h Trách
nhiệm pháp lý có giới hạn: trách nhiệm của các cổ đông chỉ
giới hạn ở số tiến đầu tư của họ.
h Công
ty cổ phần có thể tồn tại ổn định và lâu bền
h Tính
chất ổn định, lâu bền, sự thừa nhận hợp pháp, khả năng
chuyển nhượng các cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, tất cả
cộng lại, có nghĩa là nhà đầu tư có thể đầu tư mà không
sợ gây nguy hiểm cho những tài sản cá nhân khác và có sự đảm
bảo trong một chừng mực nào đo giá trị vốn đầu tư sẽ tăng
lên sau mỗi năm. Điều này đã tạo khả năng cho hầu hết các công
ty cổ phần tăng vốn tương đối dễ dàng.
h Được
chuyển nhượng quyền sở hữu.
Các cổ phần hay quyền sở hữu công ty có thể được
chuyển nhượng dễ dàng, chúng được ghi vào danh mục chuyển nhượng
tại Sở giao dịch chứng khoán và có thể mua hay bán trong các phiên
mở cửa một cách nhanh chóng. Vì vậy, các cổ đông có thể duy
trì tính thanh khoản của cổ phiếu và có thể chuyển nhượng các
cổ phiếu một cách thuận tiện khi họ cần tiền mặt.
+ Khó khăn:
h Công
ty cổ phần phải chấp hành các chế độ kiểm tra và báo cáo
chặt chẽ.
h Khó
giữ bí mật: vì lợi nhuận của các cổ đông và để thu hút các
nhà đầu tư tiềm tàng, công ty thường phải tiết lộ những tin
tức tài chính quan trọng, những thông tin này có thể bị đối
thủ cạnh tranh khai thác.
h Phía
các cổ đông thường thiếu quan tâm đúng mức, rất nhiều cổ đông
chỉ lo nghĩ đến lãi cổ phần hàng năm và ít hay không quan tâm
đến công việc của công ty. Sự quan tâm đến lãi cổ phần này
đã làm cho một số ban lãnh đạo chỉ nghĩ đến mục tiêu trước
mắt chứ không phải thành đạt lâu dài. Với nhiệm kỳ hữu
hạn, ban lãnh đạo có thể chỉ muốn bảo toàn hay tăng lãi cổ
phần để nâng cao uy tín của bản thân mình.
h Công
ty cổ phần bị đánh thuế hai lần. Lần thứ nhất thuế đánh vào
công ty. Sau đó, khi lợi nhuận được chia, nó lại phải chịu
thuế đánh vào thu nhập cá nhân của từng cổ đông.
1.3 Doanh nghiệp tư nhân:
Theo hình thức này thì vốn đầu tư vào
doanh nghiệp do một người bỏ ra. Toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp thuộc quyền sở hữu của tư nhân. Người quản lý doanh
nghiệp do chủ sở hữu đảm nhận hoặc có thể thuê mướn, tuy
nhiên người chủ doanh nghiệp là người phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm toàn bộ các khoản nợ cũng như các vi phạm trên các mặt
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước pháp
luật.
1.3.1 Định
nghĩa: Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là đơn vị kinh doanh có
mức vốn không thấp hơn vốn đăng ký, do một cá nhân làm chủ và
tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi
hoạt động của doanh nghiệp.
1.3.2 Đặc điểm.
-
DNTN là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn ra thành
lập và làm chủ. Cá nhân vừa là chủ sở hữu,
vừa là người sử dụng tài sản, đồng thời cũng là người
quản lý hoạt động doanh nghiệp. Thông thường, chủ doanh nghiệp
là giám đốc trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, nhưng cũng có trường hợp vì lý do cần thiết, chủ
doanh nghiệp không trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh mà
thuê người khác làm giám đốc. Nhưng dù trực tiếp hay gián
tiếp điều hành hoạt động sản suất kinh doanh của doanh
nghiệp, chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi
hoạt động đó. Do tính chất một chủ doanh nghiệp tư nhân quản
lý và chịu trách nhiệm không có sự phân chia rủi ro với ai.
Đặc điểm này cho phép phân biệt doanh
nghiệp tư nhân với công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu
hạn là những loại hình doanh nghiệp do nhiều người cùng chịu
trách nhiệm về mọi hoạt động của công ty tương ứng với
phần góp vốn của mình.
-
DNTN phải có mức vốn
không thấp hơn mức vốn đăng ký.
-
Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu tránh nhiệm vô hạn về các
khoản nợ trong kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là điểm khác nhau
giữa DNTN với công ty TNHH và công ty cổ phần là những cơ sở
kinh doanh mà những người chủ chỉ phải chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình.
1.3.3
Thuận lợi và khó khăn của DNTN.
- Thuận
lợi.
+
Thủ tục thành lập DNTN đơn giản, dễ dàng.
+
Người chủ sở hữu toàn quyền quyết định kiểm soát toàn bộ
hoạt động kinh doanh, do vậy dễ kiểm soát các hoạt động.
+ Tính linh hoạt do người chủ có thể thay đổi ngành hàng
kinh doanh của mình theo ý muốn.
+ Tính bí mật, mọi khoản lợi nhuận do doanh nghiệp đem
lại đều thuộc về họ, họ không phải chia xẻ bí quyết nghề
nghiệp hay kinh doanh với người khác, trừ khi họ muốn làm như
vậy.
+ Giải thể dễ dàng, DNTN có thể bán cơ sở kinh doanh của
mình cho bất kỳ người nào họ muốn với bất cứ lúc nào theo
giá họ chấp nhận
- Khó khăn
+
Khó khăn của DNTN liên quan đến số lượng tài sản, vốn có
giới hạn mà một người có thể có, thường họ bị thiếu vốn
và bất lợi này có thể gây cản trở cho sự phát triển.
+ Trách nhiệm pháp lý vô hạn, như đã nêu ở trên chủ sở
hữu được hưởng toàn bộ lợi nhuận của doanh nghiệp, nhưng
nếu thua lỗ thì họ cũng gánh chịu một mình.
+
Yếu kém năng lực quản lý toàn diện, không phải người chủ
doanh nghiệp nào cũng đủ trình độ để xử lý tất cả những
vấn đề về tài chính, sản xuất, tiêu thụ.
+ Giới hạn về sự sinh tồn của doanh nghiệp, nguyên do là
tính chất không bền vững của hình thức sở hữu này, mọi sự
cố xảy ra đối với chủ doanh nghiệp có thể làm cho doanh
nghiệp không tồn tại được nữa.
1.4 Hợp tác xã
1.4.1 Khái niệm và đặc điểm:
- Khái niệm: HTX là loại
hình kinh tế tập thể, do những người lao động và các tổ
chức có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức
lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của
tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện hiệu
quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, và cải
thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội
- Đặc điểm: HTX vừa là
tổ chức kinh tế vừa là tổ chức xã hội:
+ Là một tổ chức kinh
tế , HTX là một doanh nghiệp được thành lập nhằm phát triển
sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, bảo đảm lợi ích của người
lao động của tập thể và của xã hội.
+ Là một tổ chức xã
hội, HTX là nơi người lao động nương tựa và gíup đỡ lẫn
nhau trong sản suất cũng như trong đời sống vật chất và tinh
thần.
- Hợp tác xã tổ chức và hoạt động theo các
nguyên tắc:
+
Tự nguyện gia nhập và ra khỏi HTX.
+
Tự chịu trách nhiệm và cùng
có lợi.
+
Quản lý dân chủ và bình đẳng.
+
Phân phối đảm bảo lợi ích xã viên và
phát triển của HTX.
+
Hợp tác và phát triển cộng đồng
Vai
trò cuả kinh tế hợp tác và HTX.
Kinh tế hợp tác (KTHT) và HTX là nhu cầu tất yếu khách quan
trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức và phát triển KTHT và HTX không
chỉ giúp những người sản xuất nhỏ có đủ sức cạnh tranh,
chống lại sự chèn ép của các doanh nghiệp lớn, mà về lâu dài
Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, trong đó kinh tế HTX là một bộ phận quan trọng cùng với
kinh tế Nhà nước dần trở thành nền tảng của nền kinh tế đó
cũng là nền tảng chính trị-xã hội của đất nước để đạt
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
2. Căn cứ vào
lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. |
Theo
tiêu thức này, doanh nghiệp được phân thành các loại:
-
Doanh nghiệp nông nghiệp: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp, hướng vào việc sản xuất ra những sản phẩm
là cây, con. Hoạt động sản xuất kinh doanh của những doanh
nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên.
-
Doanh nghiệp công nghiệp: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực công nghiệp, nhằm tạo ra những sản phẩm bằng cách sử
dụng những thiết bị máy móc để khai thác hoặc chế biến nguyên
vật liệu thành thành phẩm. Trong công nghiệp có thể chia ra: công
nghiệp xây dựng, công nghiệp chế tạo, công nghiệp điện tử
v.v...
-
Doanh nghiệp thương mại: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực thương mại, hướng vào việc khai thác các dịch vụ trong khâu
phân phối hàng hóa cho người tiêu dùng tức là thực hiện những
dịch vụ mua vào và bán ra để kiếm lời.. Doanh nghiệp thương
mại có thể tổ chức dưới hình thức buôn bán sỉ hoặc buôn bán
lẻ và hoạt động của nó có thể hướng vào xuất nhập khẩu.
-
Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ: Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế, lĩnh vực dịch vụ càng được phát triển đa
dạng, những doanh nghiệp trong ngành dịch vụ đã không ngừng phát
triển nhanh chóng về mặt số lượng và doanh thu mà còn ở tính
đa dạng và phong phú của lĩnh vực này như: ngân hàng, tài chính,
bảo hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải, du lịch, khách sạn, y
tế v.v... .
Theo
tiêu thức quy mô, các doanh nghiệp đước phân làm ba loại:
*
Doanh nghiệp quy mô lớn.
*
Doanh nghiệp quy mô vừa.
*
Doanh nghiệp quy mô nhỏ.
Để phân biệt các doanh nghiệp theo quy mô như trên, hầu
hết ở các nước người ta dựa vào những tiêu chuẩn như:
-
Tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp.
-
Số lượng lao động trong doanh nghiệp.
-
Doanh thu của doanh nghiệp.
-
Lợi nhuận hàng năm.
Trong
đó tiêu chuẩn tổng số vốn và số lao động được chú trong
nhiều hơn, còn doanh thu và lợi nhuận được dùng kết hợp để
phân loại. Tuy nhiên, khi lượng hóa những tiêu chuẩn nói trên thì
tùy thuộc vào trình độ phát triển sản xuất ở mỗi quốc gia,
tùy thuộc từng ngành cụ thể, ở các thời kỳ khác nhau mà số
lượng được lượng hóa theo từng tiêu chuẩn giữa các quốc gia
không giống nhau.
Doanh
nghiệp như đã nêu ở trên, nó khác với các tổ chức khác ở
chỗ chúng sản xuất hàng hóa, hay cung cấp các loại dịch vụ
với mục đích thu được lợi nhuận nhằm mở rộng hơn nữa
hoạt động kinh doanh.
Kinh
doanh là một hệ thống sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ để
thỏa mãn các nhu cầu của con người, của xã hội. Bản thân kinh
doanh có thể được coi như một hệ thống tổng thể bao gồm
những hệ thống cấp dưới nhỏ hơn là các ngành kinh doanh, mỗi
ngành kinh doanh được tạo thành bởi nhiều doanh nghiệp có quy mô
khác nhau, sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Mỗi doanh
nghiệp lại bao gồm nhiều hệ thống con như sản xuất, tài chính,
marketing...
Bản
chất của kinh doanh:
-
Doanh nghiệp tiếp nhận các nhập lượng và hoạt động
trong những điều kiện đặc thù tùy theo loại hình kinh doanh. Tuy
nhiên có điểm chung là các yếu tố nhập lượng chỉ có giới
hạn hay được gọi là khan hiếm đối với bất kỳ doanh nghiệp
nào.
-
Doanh nghiệp sử dụng các nhập lượng theo cách thức hiệu
quả nhất.
Sự
cạnh tranh của các doanh nghiệp yêu cầu hàng hóa được bán với
giá phải chăng và có chất lượng thích hợp. Một doanh nghiệp thành
công phải luôn luôn phát hiện được những nhu cầu mới hoặc
nhu cầu còn thiếu, chưa được đáp ứng của người tiêu dùng và
luôn luôn sẵn sàng thỏa mãn các nhu cầu đó.
Dưới
áp lực của cạnh tranh và sức mua của người tiêu dùng, các nhà
sản xuất sẽ cố gắng sử dụng có hiệu quả hơn thiết bị,
nguyên liệu và lao động để tạo ra nhiều hàng hóa hơn, có
chất lượng tốt hơn. Do đó, khi theo đuổi những quyền lợi riêng
tất yếu doanh nghiệp sẽ đồng thời tạo ra lợi ích cho xã
hội, bởi các doanh nghiệp sẽ
phải thỏa mãn các nhu cầu của xã hội khi cố gắng thỏa mãn
những ham muốn của họ. Trong lúc theo đuổi lợi nhuận, nhà kinh
doanh cũng phải phục vụ người tiêu dùng và phục vụ lợi ích xã
hội. Quan niệm này là nền tảng của nền kinh tế thị trường.
-
Doanh nghiệp sản xuất
các sản phẩm dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu và xã hội.
Bản
chất của hệ thống kinh doanh được biểu hiện qua sơ đồ 1.2:
2. Đặc điểm của
hệ thống kinh doanh
2.1
Sự phức tạp và tính
đa dạng:
Hệ thống kinh doanh hiện đại là một cơ cấu rất phức tạp gồm có nhiều khu vực. Mỗi khu vực do nhiều ngành tạo nên. Mỗi ngành lại được tạo thành từ nhiều tổ chức kinh doanh mà các tổ chức kinh doanh này thay đổi trong những giới hạn hình thức sở hữu, qui mô kinh doanh, cơ cấu vốn, phong cách quản trị và phạm vi hoạt động. Chẳng hạn: khu vực sản xuất được tạo nên bằng các nhà máy lắp ráp ôtô, chế tạo đồ điện gia dụng (ấm đun nước, nồi cơm điện, tủ lạnh,...) và các sản phẩm điện tử (máy ghi âm, cassetle, đầu máy và ti vi, máy tính, máy vi tính,...). Khu vực dịch vụ bao gồm các loại dịch vụ như vận tải, ngân hàng, các dịch vụ chuyên nghiệp. Ngành công ty vận tải được tạo thành bởi các ngành: đường sắt, vận tải biển, vận tải ôtô, hàng không. Ngành công nghiệp dịch vụ bao gồm các đại lý vận chuyển, khách sạn, nhà hàng, các khu vườn quốc gia. Ngành dịch vụ chuyên nghiệp bao gồm các luật sư, kiến trúc sư, bác sĩ, chuyên viên kế toán, nhà kinh doanh bất động sản... Trong mỗi ngành công nghiệp này, một số công ty chỉ hoạt động có tính chất cục bộ địa phương. Trong khi đó nhiều công ty khác có văn phòng tại nhiều quốc gia như Morgan Stanley - Dean Wither, Novartis C Sandoz và Ciba - Geigy, Hilton, Holiday Inn...
2.2 Sự phụ thuộc lẫn nhau:
Các tổ chức kinh doanh hợp tác với nhau trong hoạt động kinh doanh. Một công ty mua nguyên liệu thô hay các chi tiết rơi từ nhiều công ty khác, sau đó bán các sản phẩm hoàn thành cho các nhà bán buôn, bán lẻ và những người này đem bán chúng cho những người sử dụng cuối cùng. Trong tiến trình đó, tất cả các tổ chức kinh doanh này đều phụ thuộc vào sự cung ứng dịch vụ của các công ty vận tải, các ngân hàng và nhiều công ty khác. Vì vậy sự phụ thuộc lẫn nhau là một hệ thống kinh doanh riêng của hệ thống kinh doanh hiện đại.
2.3 Sự thay đổi và đổi mới:
Để đảm bảo thành công, các tổ chức kinh doanh phải đáp ứng kịp thời những thay đổi thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng. Hệ quả tất yếu của các tiến bộ công nghệ là nhiều sản phẩm nhanh chóng trở nên lỗi thời và bị thay thế. Bởi vậy sự thay đổi và đổi mới là những đặc trưng quan trọng trong hệ thống kinh doanh hiện đại.
Hệ thống tổ chức kinh doanh cần đến nhiều yếu tố nhập lượng khác nhau để tạo ra các xuất lượng cho xã hội. Các nhập lượng này được gọi là các yếu tố sản xuất, các nhập lượng căn bản gồm có lao động, tiền vốn, nguyên vật liệu, đội ngũ các nhà kinh doanh.
3.1 Lao động: Bao gồm tất cả những người làm việc trong doanh nghiệp (còn được gọi là nguồn nhân lực) từ giám đốc đến quản đốc, nhân công đến nhân viên văn phòng, công nhân trong dây chuyền lắp ráp, người bán hàng,...
3.2 Tiền vốn: Là tất cả tiền của cho hoạt động tài chính của một doanh nghiệp. Những tiền của này có thể là vốn đầu tư của chính chủ doanh nghiệp, các cổ đông, của các thành viên, là tiền vay ngân hàng hay lợi nhuận kinh doanh được giữ lại. Chúng được sử dụng để mua nguyên liệu, trả lương công nhân, lắp đặt máy móc, thiết bị mới hay xây dựng nhà xưởng, mở rộng nhà máy.
3.3 Nguyên liệu: Có thể thuộc dạng tự nhiên như đất đai, nước hay khoáng chất để tuyển chọn. Trong công nghiệp nguyên liệu bao gồm nguyên liệu thô, linh kiện rời hay bán thành phẩm, sử dụng trực tiếp trong quá trình sản xuất.
3.4 Đội ngũ các nhà kinh doanh: Là những người chấp nhận rủi ro tham gia vào hoạt động kinh doanh. Nhà kinh doanh có thể tự quản lý doanh nghiệp của họ hoặc đối với các tổ chức kinh doanh lớn giới chủ có thể thuê mướn một đội ngũ các nhà quản trị chuyên nghiệp thay mặt họ điều hành doanh nghiệp.
Nhà kinh doanh là những người tạo lập doanh nghiệp, làm chủ sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Đó là những người có sáng tạo, linh hoạt, dám chấp nhận những mạo hiểm rủi ro trong kinh doanh, chính họ là những người tạo nên sức sống của doanh nghiệp, tạo nên sự sôi động của cuộc sống cạnh tranh trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò kinh doanh biểu hiện trước hết trong việc chuyển dịch các yếu tố kinh doanh: đất đai, lao động, vốn, kỹ thuật, thông tin...
Nhà kinh doanh phải là những người có khả năng hoạt động theo nhiều chức năng khác nhau. Khi bước vào lĩnh vực kinh doanh họ có quyết tâm để theo đuổi những mục tiêu đã xác định: tìm kiếm lợi nhuận, được tự chủ trong hành động, được thỏa mãn trong cuộc sống v.v... .
Những nhà doanh nghiệp thành công chỉ
chấp nhận những rủi ro được tính toán của việc thu lợi
nhuận hoặc lỗ lã trong việc thực hiện những hoạt động kinh
doanh trong một thị trường mà họ đã phát hiện ra một ý niệm
về những nhu cầu.
Các
doanh nghiệp dù họat động ở các lĩnh vực khác nhau đều có điểm
giống nhau:
-
Có phương tiện sản xuất, nguồn nhân lực, tài chính, kỹ
thuật, bí quyết.
-
Mua nguyên vật liệu, nhiên liệu, thiết bị máy móc của người
cung ứng.
-
Sản xuất ra của cải hoặc dịch vụ để bán cho khách hàng
hoặc cung cấp cho xã hội.
Doanh nghiệp phải kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất để sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Doanh nghiệp cần xác định giá bán sản phẩm/dịch vụ cho phép bù đắp các chi phí sản xuất kinh doanh đã bỏ ra. Các doanh nghiệp đều phải đối đầu với tính toán này.
Tiền thu được do bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ doanh nghiệp pahỉ chi trả rất nhiều khoản khác nhau:
-
Chi trả cho người cung ứng nguyên vật liệu, máy móc thiết
bị; nhiên liệu, năng lượng
-
Chi trả tiền lương, tiền thưởng cho người lao động;
-
Chi sửa chữa tài sản cố định;
-
Chi cho quản lý: thông tin, liên lạc, văn phòng phẩm, hội
nghị khách hàng, tiếp khách...
-
Chi cho bán hàng, đại lý, quảng cáo, khuyến mãi.
-
Trả lãi vốn vay,
-
Chi bảo hiểm xã hội;
-
Chi xây dựng cơ bản;
-
Nộp thuế và đóng góp cho xã hội
-
Lập quỹ dự trữ và quỹ phát triển sản xuất – kinh
doanh
-
Lập quỹ phúc lợi
Doanh
nghiệp cần tính toán cân đối các khoản thu và khoản chi sao cho
hoạt động sản xuất kinh doanh không ngừng phát triển.
V. MÔI TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP |
Sự phát triển có hiệu quả và bền vững của toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, suy cho cùng phụ thuộc vào kết quả của
các phần tử cấu thành - các doanh nghiệp. Mức độ đạt được
hệ thống mục tiêu kinh tế - xã hội của mỗi doanh nghiệp lại
phụ thuộc vào môi trường kinh doanh và khả năng thích ứng của
doanh nghiệp với hoàn cảnh của môi trường kinh doanh.
Từ quan niệm chung: Môi trường là tập hợp các yếu tố, các
điều kiện thiết lập nên khung cảnh sống của một chủ thể,
người ta thường cho rằng môi trường kinh doanh là tổng hợp các
yếu tố, các điều kiện có ảnh hưởng trực tiếp hay gián
tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Các yếu tố, các điều kiện cấu thành môi trường kinh
doanh luôn luôn có quan hệ tương tác với nhau và đồng thời tác
động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng mức độ
và chiều hướng tác động của các yếu tố, điều kiện lại khác
nhau. Trong cùng một thời điểm, với cùng một đối tượng có
yếu tố tác động thuận, nhưng lại có yếu tố tạo thành lực
cản đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Các yếu tố, điều kiện tác động đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp không cố định một cách tĩnh tại mà thường
xuyên vận động, biến đổi. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp, các nhà quản trị phải nhận biết
một cách nhạy bén và dự báo đúng được sự thay đổi của môi
trường kinh doanh.
Môi trường kinh doanh được cấu thành từ nhiều yếu tố
khác nhau. Xét theo cấp độ tác động đến sản xuất và quản
trị doanh nghiệp, có cấp độ nền kinh tế quốc dân và cấp độ
ngành.
Ở cấp độ nền kinh tế quốc dân (còn gọi là môi trường
vĩ mô, môi trường tổng quát), các yếu tố môi trường bao gồm:
- Các yếu tố chính trị - luật
pháp.
- Các yếu tố kinh tế
- Các yếu tố kỹ thuật - công nghệ.
- Các yếu tố văn hóa - xã hội
- Các yếu tố tự nhiên.
Ở cấp độ ngành (còn gọi là môi trường tác nghiệp), các
yếu tố môi trường bao gồm:
- Sức ép và yêu cầu của khách hàng
- Các đối thủ cạnh tranh hiện có và tiềm ẩn.
- Mức độ phát triển của thị trường các yếu tố
- Các sản phẩm thay thế sản phẩm doanh nghiệp đang sản
xuất
- Các quan hệ liên kết.
Môi trường tác nghiệp được xác định đối với một ngành
công nghiệp cụ thể, với tất cả các doanh nghiệp
trong ngành chịu ảnh hưởng của môi trường tác nghiệp
trong ngành đó.
Xét theo quá trình kinh doanh của doanh
nghiệp, có thể phân chia môi trường kinh doanh thành môi trường bên
trong và môi trường bên ngoài.
- Môi trường bên trong bao gồm toàn bộ các quan hệ kinh
tế, tổ chức kỹ thuật nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp kết
hợp các yếu tố sản xuất để tạo ra sản phẩm đạt hiệu
quả cao. Môi trường bên trong bao gồm các yếu tố nội tại trong
một doanh nghiệp nhất định,
trong thực tế doanh nghiệp là
tổng hợp các yếu tố hoàn cảnh nội bộ của nó.
Môi trường bên ngoài là tổng
thể các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, quan, tác động đến
hoạt động của doanh nghiệp.
Nhiều khi môi trường vĩ mô và môi trường tác nghiệp kết
hợp với nhau và được gọi là môi trường bên ngoài.
Ba mức độ điều kiện môi trường này được định nghĩa
và mối tương quan của chúng được minh họa trên sơ đồ 1.3
Các doanh nghiệp cần nhận biết hai yếu tố khác khi phân tích
các ảnh hưởng của môi trường. Thứ nhất là, tính phức tạp
của môi trường được đặc trưng bởi một loạt các yếu tố có
ảnh hưởng đến các nổ lực của doanh nghiệp. Môi trường càng
phức tạp thì càng khó đưa ra các quyết định hữu hiệu. Thứ
hai là, tính biến động của môi trường, bao hàm tính năng động
hoặc mức độ biến đổi trong điều kiện môi trường liên quan.
Trong một môi trường ổn định mức độ biến đổi có thể tương
đối thấp và có thể dự đoán được. Môi trường biến động
đặc trưng bởi những vấn đề diễn ra nhanh chóng và khó mà dự
báo trước được. Tính phức tạp và biến động của môi trường
đặc biệt hệ trọng khi tiến hành phân tích các điều kiện môi
trường vĩ mô và môi trường tác nghiệp vì cả hai đều là yếu
tố ngoại cảnh đối với doanh nghiệp.
Mục đích nghiên cứu xác định và hiểu rõ các điều
kiện môi trường liên quan là để làm rõ các yếu tố môi trường
nào có nhiều khả năng ảnh hưởng đến các việc ra quyết định
của doanh nghiệp, đang tạo ra cơ hội hay đe dọa đối với doanh
nghiệp.
2.1 Môi trường vĩ mô
Các yếu tố môi trường vĩ mô bao gồm: các yếu tố kinh
tế, yếu tố chính trị và luật pháp, yếu tố xã hội, yếu tố
tự nhiên và yếu tố công nghệ, yếu tố môi trường quốc tế.
Mỗi yếu tố môi trường vĩ mô nói trên có thể ảnh hưởng đến
tổ chức một cách độc lập hoặc trong mối liên kết với các
yếu tố khác.
2.1.1 Các yếu tố kinh tế.
Các ảnh hưởng chủ yếu về kinh tế gồm các yếu tố như
lãi suất ngân hàng, giai đoạn của
chu kỳ kinh tế, cán cân thanh toán, chính sách tài chính và
tiền tệ. Vì các yếu tố này tương đối rộng nên cần chọn
lọc để nhận biết các tác
động cụ thể ảnh hưởng trực tiếp nhất đối với hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng vô cùng lớn đến các
doanh nghiệp kinh doanh. Chẳng hạn như lãi suất và xu hướng lãi
suất trong nền kinh tế có ảnh hưởng tới xu thế của tiết
kiệm, tiêu dùng và đầu tư, do vậy sẽ ảnh hưởng tới họat động
của các doanh nghiệp. Lãi suất tăng sẽ hạn chế nhu cầu cầu
vay vốn để đầu tư mở rộng họat động kinh doanh, ảnh hưởng
đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra khi lãi suất tăng cũng
sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn,
do vậy cũng sẽ làm cho nhu cầu cầu tiêu dùng giảm xuống.
Xu hướng của tỷ giá hối đoái: Sự biến động của tỷ
giá làm thay đổi những điều kiện kinh doanh nói chung, tạo ra
những cơ hội đe dọa khác nhau đối với các doanh nghiệp, đặc
biệt nó có những tác động điều chỉnh quan hệ xuất nhập
khẩu.
Mức độ lạm phát: lạm phát cao hay thấp có ảnh hưởng đến
tốc độ đầu tư vào nền kinh tế. Khi lạm phát quá cao sẽ không
khuyến khích tiết kiệm và tạo ra những rủi ro lớn cho sự đầu
tư của các doanh nghiệp, sức mua của xã hội cũng bị giảm sút
và làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Trái lại, thiểu phát cũng
làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Việc duy trì một tỷ lệ
lạm phát vừa phải có tác dụng khuyến khích đầu tư vào nền
kinh tế, kích thích thị trường tăng trưởng.
Tuy có nhiều số liệu
cụ thể, song việc dự báo kinh tế không phải là một khoa học
chính xác. Một số doanh nghiệp thường sử dụng các mô hình dự
báo thay vì dựa vào các số liệu dự báo sẵn có. Đối với các
doanh nghiệp chưa xây dựng được mô hình đó cũng cần phải xác
định các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng lớn nhất đối với
tổ chức.
Các kiến thức kinh tế sẽ giúp các nhà quản trị xác định
những ảnh hưởng của một doanh nghiệp đối với nền kinh tế
của đất nước, ảnh hưởng của các chính sách kinh tế của chính
phủ đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tính ổn định
về kinh tế trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính
quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Đây là
những vấn đề các doanh nghiệp rất quan tâm và liên quan trực
tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của họ.
2.1.2 Yếu tố chính
trị và luật pháp
Các yếu tố chính trị
và luật pháp có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động
của các doanh nghiệp, bao gồm hệ thống các quan điểm, đường
lối chính sách của chính phủ, hệ thống luật pháp hiện hành, các
xu hướng ngoại giao của chính phủ, những diễn biến chính trị
trong nước, trong khu vực và trên toàn thế giới. Doanh nghiệp
phải tuân theo các quy định về thuê mướn, thuế, cho vay, an toàn,
vật giá, quảng cáo nơi đặt nhà máy và bảo vệ môi trường
v.v... .
Luật pháp: đưa ra những quy định cho phép hoặc không cho phép,
hoặc những ràng buộc đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân thủ.
Chính phủ là cơ quan giám sát, duy trì, thực hiện pháp
luật và bảo vệ lợi ích quốc gia. Chính phủ có vai trò to lớn
trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các chính sách kinh
tế, tài chính, tiền tệ, các chương trình chi tiêu của mình.
Trong mối quan hệ với các doanh nghiệp, chính phủ vừa đóng vai
trò là người kiểm soát, khuyến khích, tài trợ, quy định ngăn
cấm, hạn chế, vừa đóng vai trò là khách hàng quan trọng đối
với các doanh nghiệp (trong các chương trình chi tiêu của chính
phủ), và sau cùng chính phủ cũng đóng vai trò là nhà cung cấp các
dịch vụ cho các doanh nghiệp: cung cấp các thông tin vĩ mô, các
dịch vụ công cộng khác... .
Như vậy, hoạt động của chính phủ cũng có thể tạo ra cơ
hội hoặc nguy cơ. Thí dụ, một số chương trình của chính phủ
(như biểu thuế hàng ngoại nhập cạnh tranh, chính sách miễn
giảm thuế) tạo cho doanh nghiệp cơ hội tăng trưởng hoặc cơ
hội tồn tại. Ngược lại, việc tăng thuế trong một ngành nhất
định nào đó có thể đe dọa đến lợi nhuận của doanh nghiệp
.
Nhìn chung, các doanh nghiệp hoạt động được là vì điều
kiện xã hội cho phép. Chừng nào xã hội không còn chấp nhận các
điều kiện và bối cảnh thực tế nhất định, thì xã hội sẽ
rút lại sự cho phép đó bằng cách đòi hoi chính phủ can thiệp
bằng chế độ chính sách hoặc hệ thống pháp luật. Thí dụ,
mối quan tâm của xã hội đối với vấn đề ô nhiễm môi trường
hoặc tiết kiệm năng lượng được phản ảnh trong các biện pháp
của chính phủ. Xã hội cũng đòi hỏi có các quy định nghiêm
ngặt đảm bảo các sản
phẩm tiêu dùng được sử dụng an toàn.
Sự ổn định chính trị tạo ra môi trường thuận lợi đối
với các hoạt động kinh doanh. Một chính phủ mạnh và sẵn sàng
đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của xã hội sẽ đem lại lòng
tin và thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong một xã
hội ổn định về chính trị, các nhà kinh doanh được đảm bảo
an toàn về đầu tư, quyền sở hữu các tài sản khác của họ,
như vậy họ sẽ sẵn sàng đầu tư với số vốn nhiều hơn vào các
dự án dài hạn. Chính sự can thiệp nhiều hay ít của chính phủ
vào nền kinh tế đã tạo ra những thuận lợi hoặc khó khăn và cơ
hội kinh doanh khác nhau cho từng doanh nghiệp . Điều đó đòi hỏi
các doanh nghiệp cần sớm phát hiện ra những cơ hội hoặc thách
thức mới trong kinh doanh, từ đó điều chỉnh thích ứng các
hoạt động nhằm tránh những đảo lộn lớn trong quá trình vận
hành, duy trì và đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong kinh
doanh. Vấn đề then chốt là cần
phải tuân thủ các quy định có thể được ban hành.
2.1.3 Yếu tố văn hóa - xã hội.
Môi trường văn hóa - xã hội bao gồm những chuẩn mực và
giá trị được chấp nhận và tôn trọng bởi một xã hội hoặc
một nền văn hóa cụ thể. Sự thay đổi của các yếu tố văn hóa
- xã hội một phần là hệ quả của sự tác động lâu dài của
các yếu tố vĩ mô khác, do vậy nó thường biến đổi chậm hơn
so với các yếu tố khác. Một số đặc điểm mà các nhà quản
trị cần chú ý là: sự tác động của các yếu tố văn hóa - xã
hội thường có tính dài hạn và tinh tế hơn so với các yếu tố
khác, nhiều lúc khó mà nhận biết được. Mặt khác, phạm vi tác
động của các yếu tố văn hóa - xã hội thường rất rộng:
"nó xác định cách thức người ta sống, làm việc, sản
xuất và tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ". Các khía
cạnh hình thành môi trường văn hóa - xã hội có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến các họat động kinh doanh như: những quan niệm về
đạo đức, thẩm mỹ,lối sống, về nghề nghiệp; những phong
tục, tập quán, truyền thống; những quan tâm ưu tiên của xã
hội; trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội... .
Tất cả các doanh nghiệp cần phân tích rộng rãi các yếu
tố xã hội nhằm nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy
ra. Khi một hay nhiều yếu tố thay đổi chúng có thể tác động
đến doanh nghiệp, như xu hướng nhân chủng học, sở thích vui chơi
giải trí, chuẩn mực đạo đức và quan điểm về mức sống,
cộng đồng kinh doanh và lao động nữ.
Các yếu tố xã hội học trên thường biến đổi hoặc
tiến triển chậm nên đôi khi thường khó nhận biết. Thí dụ,
hiện nay có một số lượng lớn lao động là nữ giới. Điều
nay do quan điểm của nam giới cũng như nữ giới đã thay đổi. Nhưng
rất ít doanh nghiệp nhận ra sự thay đổi quan điểm này để dự
báo tác động của nó và đề ra chiến lược tương ứng. Các
thay đổi khác diễn ra nhanh hơn nếu chúng gây ra bởi sự gián đoạn
bên ngoài nào đó trong hành vi chuẩn mực đạo đức của xã
hội.
Trong môi trường văn hóa, các nhân tố nổi lên giữ vai trò
đặc biệt quan trọng là tập quán, lối sống, tôn giáo. Các nhân
tố này được coi là "hàng rào chắn"
các hoạt động giao dịch thương mại. Thị hiếu và tập quán
của người tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu, vì
ngay cả trong trường hợp hàng hóa thực sự có chất lượng tốt
nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng thì cũng khó
được họ chấp nhận. Chính thị hiếu, tập quán người tiêu dùng
mang đặc điểm riêng của từng vùng, từng dân tộc và phản ánh
yếu tố văn hóa, lịch sử, tôn giáo của từng địa phương,
từng quốc gia.
Trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước, đạo đức xã hội trong đó có đạo đức
kinh doanh được coi là một khía cạnh thiết thực và quan trọng
của môi trường kinh doanh. Đạo đức đặt cương lĩnh cho hoạt
động hàng ngày trong một xã hội và chi phối mọi hành vi và tác
phong cá nhân. Đạo đức là giới hạn ngăn cách những hành vi
xấu và là động lực thúc đẩy những hành vi tốt. Đạo đức có
thể coi như một nhu cầu xã hội và vì vậy bất kỳ một thể
chế kinh tế nào cũng phải xây dựng một khuôn khổ đạo đức
để làm một trong những nguyên tắc điều hành.
2.1.4
Yếu tố tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, khí hậu,
cảnh quan thiên nhiên, đất đai, sông biển, các nguồn tài nguyên
khoáng sản trong lòng đất, tài
nguyên rừng biển, sự trong sạch của môi trường nước, không khí,...
.Tác động của các điều kiệu tự nhiên đối với các quyết sách
trong kinh doanh từ lâu đã được các doanh nghiệp thừa nhận.
Trong rất nhiều trường hợp, chính các điều kiện tự nhiên
trở thành một yếu tố rất quan trọng
để hình thành lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm và
dịch vụ.
Tuy nhiên,
cho tới nay các yếu tố về duy trì môi trường tự nhiên
rất ít được chú ý tới. Sự quan tâm của các nhà hoạch
định chính sách của nhà nước ngày càng tăng vì công chúng quan
tâm nhiều hơn đến chất lượng môi trường tự nhiên. Các vấn
đề ô nhiễm môi trường, sản phẩm kém chất lượng, lãng phí tài
nguyên thiên nhiên cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với các
nguồn lực có hạn khiến công chúng cũng như các nhà doanh nghiệp
phải thay đổi các quyết định và
biện pháp hoạt động liên
quan.
2.1.5
Yếu tố công nghệ.
Đây là một trong những yếu tố rất năng động, chứa đựng
nhiều cơ hội và đe dọa đối với các doanh nghiệp. Những áp
lực và đe dọa từ môi trường công nghệ có thể là: sự ra đời
của công nghệ mới làm xuất hiện và tăng cường ưu thế cạnh
tranh của các sản phẩm thay thế, đe dọa các sản phẩm truyền
thống của ngành hiện hữu. Sự bùng nổ của công nghệ mới làm
cho công nghệ hiện tại bị lỗi thời và tạo ra áp lực đòi
hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ để tăng cường
khả năng cạnh tranh. Sự ra đời của công nghệ mới làm tăng thêm
áp lực đe dọa các doanh nghiệp hiện có trong ngành. Sự bùng nổ
của công nghệ mới càng làm cho vòng đời công nghệ có xu hướng
rút ngắn lại, điều này càng làm tăng thêm áp lực phải rút
ngắn thời gian khấu hao so với trước.
Ít có ngành công
nghiệp và doanh nghiệp nào mà
lại không phụ thuộc vào cơ sở công nghệ ngày càng hiện đại.
Các nhà nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ hàng đầu
nói chung đang lao vào công việc tìm tòi các giải pháp kỹ thuật
mới nhằm giải quyết các vấn đề tồn tại và xác định các công
nghệ hiện tại có thể khai thác trên thị trường.
Các doanh nghiệp cũng phải cảnh giác đối với các công
nghệ mới có thể làm cho sản phẩm của họ bị
lạc hậu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Bên cạnh đó,
các nhà quản trị cần lưu ý thêm khi đề cập đến môi trường
công nghệ:
- Áp lực tác động của sự phát triển công nghệ và mức
chi tiêu cho sự phát triển công nghệ khác nhau theo ngành. Như
vậy, đối với những nhà quản trị trong những ngành bị ảnh hưởng
bởi sự thay đổi kỹ thuật nhanh thì quá trình đánh giá những cơ
hội và đe dọa mang tính công nghệ trở thành vấn đề đặc
biệt quan trọng của việc kiểm soát các yếu tố bên ngoài.
- Một số ngành nhất định có thể nhận được sự
khuyến khích và tài trợ của chính phủ cho việc nghiên cứu và
phát triển - khi có sự phù hợp với các phương hướng và ưu tiên
của chính phủ. Nếu các doanh nghiệp biết tranh thủ những cơ
hội từ sự trợ giúp này sẽ gặp được những thuận lợi trong
quá trình họat động.
2.2
Môi trường tác nghiệp
Môi trường
tác nghiệp bao gồm các yếu tố trong ngành và là các yếu tố
ngoại cảnh đối với doanh nghiệp, quyết định tính chất và
mức độ cạnh tranh trong ngành
kinh doanh đó. Có 5 yếu tố cơ bản là: đối thủ cạnh tranh, người
mua, người cung cấp, các đối thủ mới tiềm ẩn và sản phẩm
thay thế. Mối quan hệ giữa các yếu tố được phản ảnh qua sơ
đồ 1.4
Vì ảnh hưởng chung của các yếu tố này thường là một
sự miễn cưỡng đối với tất cả các doanh nghiệp, nên chìa khóa
để ra được một chiến lược thành công là phải phân tích
từng yếu tố chủ yếu đó. Sự am hiểu các nguồn sức ép cạnh
tranh giúp các doanh nghiệp nhận ra mặt mạnh và mặt yếu của mình
liên quan đến các cơ hội và nguy cơ mà ngành kinh doanh đó gặp
phải.
2.2.1
Các đối thủ cạnh tranh.
Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa
quan trọng đối với các doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân. Thứ
nhất là các đối thủ cạnh tranh quyết định tính chất và mức
độ tranh đua hoặc thủ thuật giành lợi thế trong ngành.
Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào
mối tương tác giữa các yếu tố như số lượng doanh nghiệp tham
gia cạnh tranh, mức độ tăng trưởng của ngành, cơ cấu chi phí
cố định và mức độ đa dạng hóa sản phẩm. Sự hiện hữu
của các yếu tố này có xu hướng làm tăng nhu cầu hoặc nguyện vọng của doanh nghiệp muốn đạt được và bảo vệ thị phần của mình.
Vì vậy chúng làm cho sự cạnh tranh thêm gay gắt.
Các doanh nghiệp cần nhận thấy rằng quá trình cạnh tranh
không ổn định. Chẳng hạn, trong các ngành
công nghiệp phát triển chín muồi thường sự cạnh tranh
mang tính chất dữ dội khi mức tăng trưởng và lợi nhuận bị
suy giảm (mạch tích hợp IC, máy tính cầm tay). Ngoài ra các đối
thủ cạnh tranh mới và các giải pháp công nghệ mới cũng thường
làm thay đổi mức độ và tính chất cạnh tranh.
Các doanh nghiệp cần phân tích từng đối thủ cạnh tranh để
nắm và hiểu được các biện pháp phản ứng và hành động mà
họ có thể thông qua.
Mục đích tương lai: Sự
hiểu biết mục đích của đối thủ cạnh tranh giúp doanh nghiệp
đoán biết được:
h Mức
độ mà đối thủ cạnh tranh bằng lòng với kết quả tài chính và
vị trí hiện tại của họ.
h Khả
năng đối thủ cạnh tranh thay đổi chiến lược.
h Sức
mạnh phản ứng của đối thủ trước những diễn biến bên ngoài
(thí dụ, khi các hãng khác đưa ra những thay đổi về mặt chiến
lược, các hoạt động về marketing...).
h Tính
chất hệ trọng của các sáng kiến mà đối thủ cạnh tranh đề
ra.
Các yếu tố chủ yếu điều tra liên quan đến các mục đích
của đối thủ cạnh tranh là:
- Các mục đích về tài chính;
- Quan điểm hoặc giá trị về mặt tổ chức;
- Cơ cấu tổ chức;
- Các hệ thống kiểm soát;
- Các nhân viên quản trị, nhất là tổng giám đốc điều hành;
- Sự nhất trí của lãnh đạo về hướng đi trong tương
lai;
- Thành phần Hội đồng quản trị;
- Các giao ước hợp đồng có thể hạn chế các thay đổi;
- Những hạn chế liên quan đến các qui định điều chỉnh,
qui định về chống độc quyền và các quy định khác của chính
phủ hoặc xã hội.
Nhận định: Một điều rất có lợi cho doanh nghiệp là
nắm bắt được những nhận định của đối thủ cạnh tranh về
chính họ và các doanh nghiệp khác trong ngành. Nếu như các nhận
định này không chính xác thì chúng sẽ tạo ra các "điểm mù",
tức là điểm yếu của đối phương. Chẳng hạn, nếu đối thủ
cạnh tranh tin tưởng rằng họ được khách hàng tín nhiệm cao, thì
họ có thể mắc điểm yếu là không thực hiện biện pháp cạnh
tranh như giảm giá và đưa ra
các sản phẩm mới. Tương tự như vậy, doanh nghiệp có thể có
những nhận định thiếu chính xác về ngành hàng hoặc môi trường
hoạt động của mình. Chẳng hạn, các hãng sản xuất ô tô của
Hoa Kỳ đã một thời cho rằng nhu cầu xe còn phụ thuộc căn bản
vào điều kiện kinh tế. Điều nhận định sai lầm này là điểm
yếu cuả họ trước những đối thủ cạnh tranh nước ngoài nào
sản xuất các loại xe có các bộ phận xa xỉ hơn và được
chấp nhận vì chất lượng cao hơn.
Cần
lưu ý rằng việc phân tích cặn kẽ lịch sử của đối thủ canh
tranh và kinh nghiệm của các nhà lãnh đạo và chuyên gia cố vấn
của họ giúp ta hiểu rõ các mục đích và nhận định của họ.
Các doanh nghiệp phải xem xét đến tiềm năng chính yếu
của đối thủ cạnh tranh, các ưu, nhược, điểm của họ trong các
lĩnh vực hoạt động sau đây:
- Các loại sản phẩm.
- Hệ thống phân phối.
- Marketing và bán hàng.
- Các hoạt động tác nghiệp/sản xuất.
- Nghiên cứu và thiết kế công nghệ.
- Giá thành sản phẩm.
- Tiềm lực tài chính.
- Tổ chức.
- Năng lực quản lý chung.
- Danh mục đầu tư của công ty.
- Nguồn nhân lực.
- Quan hệ xã hội (như đối với Chính phủ).
Ngoài các yếu tố kể trên cần xem xét đến tính thống
nhất của các mục đích và chiến lược của đối thủ cạnh
tranh. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tìm hiểu khả năng tăng trưởng
của các đối thủ cạnh tranh và đánh giá xem:
- Các năng lực của họ gia tăng tăng hay giảm xuống nếu có
sự tăng trưởng;
- Khả năng tiềm ẩn để tăng trưởng, cụ thể tiềm năng
về con người, tay nghề của người lao động và công nghệ;
- Mức tăng trưởng mà
họ có thể giữ vững theo triển vọng tài chính.
Một điều hết sức quan trọng là khả năng đối thủ
cạnh tranh có thể thích nghi với những thay đổi. Các doanh
nghiệp cần xem xét khả năng phản ứng của đối thủ cạnh tranh
trước các diễn biến của các tiến bộ công nghệ, lạm phát và
sự can thiệp mạnh của Chính phủ. Ngoài ra, cần xem xét tới
khả năng thích nghi của họ đối với các thay đổi liên quan đến
từng lĩnh vực hoạt động marketing đang mở rộng hoặc họ có
quản lý được dây chuyền sản phẩm phức tạp hơn
không?
Khả năng chịu đựng của đối thủ cạnh tranh, tức khả năng
đương đầu với các cuộc tranh giành kéo dài. Điều đó phụ
thuộc vào dự trữ tiền vốn, sự nhất trí trong ban
lãnh đạo, triển vọng lâu dài trong các mục đích tài chính
của doanh nghiệp và không bị sức ép trên thị trường chứng khoán.
Sự am hiểu về các đối thủ cạnh tranh chính có tầm quan
trọng đến mức có thể nó cho phép đề ra thủ thuật phân tích
đối thủ cạnh tranh và duy trì hồ sơ về các đối thủ trong đó
có các thông tin thích hợp và các thông tin về từng đối thủ
cạnh trạnh chính được thu nhận một cách hợp pháp.
2.2.2 Khách hàng.
Vấn đề khách hàng là một bộ phận không tách rời trong môi
trường cạnh tranh. Sự tín nhiệm
của khách hàng có thể là tài sản có giá trị nhất của hãng.
Sự tín nhiệm đó đạt được do biết thỏa mãn tốt hơn nhu
cầu và thị hiếu của khách hàng so với với các đối thủ
cạnh tranh.
Một vấn đề mấu chốt khác liên quan đến khách hàng là
khả năng trả giá của họ. Người mua có ưu thế có thể làm cho
lợi nhuận của ngành hàng giảm bằng cách ép giá xuống hoặc đòi
hỏi chất lượng cao hơn và phải làm nhiều công việc dịch vụ
hơn.
Người mua có tương đối nhiều thế mạnh hơn khi họ có các
điều kiện sau:
i Lượng
hàng người mua chiếm tỷ lệ lớn trong khối lượng hàng bán ra
của hãng, như lượng bán hàng mà hãng General Motors mua của các
doanh nghiệp sản xuất linh kiện nhỏ.
i
Việc chuyển sang mua hàng của người khác không gây nhiều tốn kém;
i Người
mua đưa ra tín hiệu đe dọa đáng tin cậy sẽ hội nhập ngược
với các bạn hàng cung ứng, như các hãng sản xuất ô tô thường
làm;
i Sản
phẩm của người bán ít ảnh hưởng đến chất lượng sản
phẩm của người mua.
Nếu sự tương tác của các điều kiện nói trên làm cho
doanh nghiệp không đạt được mục tiêu của mình thì doanh
nghiệp phải cố gắng thay đổi vị thế của mình trong việc thương
lượng giá bằng cách thay đổi một hoặc nhiều điều kiện nói
trên hoặc là phải tìm khách hàng ít có ưu thế hơn.
Các doanh nghiệp cũng cần lập bảng phân loại các khách hàng
hiện tại và tương lai. Các thông tin thu được từ bảng phân
loại này là cơ sở định hướng quan trọng cho việc hoạch định
kế hoạch, nhất là các kế hoạch liên quan trực tiếp đến
marketing.
2.2.3 Nhà cung ứng.
Các doanh nghiệp cần phải quan hệ với các tổ chức cung
cấp các nguồn hàng khác nhau, như vật tư, thiết bị, lao động và
tài chính.
2.2.3.1 Người bán vật tư, thiết bị.
Các tổ chức cung cấp vật tư, thiết bị có ưu thế có
thể gây khó khăn bằng cách
tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm hoặc giảm dịch vụ đi kèm.
Yếu tố làm tăng thế mạnh của các tổ chức cung ứng cũng tương
tự như các yếu tố làm tăng thế mạnh của người mua sản
phẩm, Cụ thể là các yếu tố: số lượng cung cấp ít; không có
mặt hàng thay thế khác và không có nhà cung cấp nào chào bán các
sản phẩm có tính khác biệt. Nếu người cung cấp có được điều
kiện thuận lợi như vậy thì các doanh nghiệp mua hàng cần kiếm
cách cải thiện vị thế của họ bằng cách tác động đến một
hay nhiều yếu tố nói trên. Họ có thể đe dọa hội nhập dọc
bằng cách mua lại các cơ sở cung cấp hàng cho chính họ, hoặc có
thể mua giấy phép độc quyền.
Việc lựa chọn người cung cấp dựa trên số liệu phân tích
về người bán. Cần phân tích mỗi tổ chức cung ứng theo các
yếu tố có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Các
hồ sơ về người bán trong quá khứ cũng có giá trị, trong các
hồ sơ đó ít nhất cũng phải tóm lược được những sai biệt
giữa việc đặt hàng và nhận hàng liên quan đến nội dung, ngày
tháng, điều kiện bán hàng và bất kỳ tình tiết giảm nhẹ nào
có tác động đến người cung cấp hàng.
2.2.3.2 Người cung cấp vốn:
Trong những thời điểm nhất định phần lớn các doanh
nghiệp, kể cả các doanh nghiệp làm ăn có lãi, đều phải vay
vốn tạm thời từ người tài trợ. Nguồn tiền vốn này có thể
nhận được bằng cách vay ngắn hạn hoặc dài hạn hoặc phát hành
cổ phiều. Khi doanh nghiệp tiến hành phân tích về các tổ chức
tài chính thì trước hết cần chú ý xác dịnh vị thế của mình
so với các thành viên khác trong cộng đồng. Cần đặt ra các câu
hỏi cơ bản sau:
i
Cổ phiếu của doanh nghiệp có được đánh giá đúng không
?
i
Các điều kiện cho vay hiện tại của chủ nợ có phù hợp
với các mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp không ?
i
Người cho vay có khả năng kéo dài ngân khoản và thời gian
cho vay khi cần thiết không
2.2.3.3 Nguồn lao động:
Nguồn lao động cũng là một phần chính yếu trong môi trường
cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả
năng thu hút và giữ được các nhân viên có năng lực là tiền đề
để dảm bảo thành công cho doanh nghiệp. Các yếu tố chính cần
đánh giá là đội ngũ lao động chung bao gồm: trình độ đào
tạo và trình độ chuyên môn của họ, mức độ hấp dẫn tương
đối của doanh nghiệp với tư cách là người sử dụng lao động
và mức tiền công phổ biến.
Các nghiệp đoàn cũng có vai trò đáng kể trong môi trường
cạnh tranh. Tính chất đặc thù của mối quan hệ giữa doanh
nghiệp và các nghiệp đoàn liên quan, với tư cách là người cung
cấp lao động, có thể tác động mạnh đến khả năng đạt được
mục tiêu của doanh nghiệp.
2.2.4
Đối thủ tiềm
ẩn mới:
Đối thủ mới tham gia kinh doanh trong ngành có thể là yếu
tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do họ đưa vào khai thác
các năng lực sản xuất mới, với mong muốn giành được thị
phần và các nguồn lực cần thiết. Cần lưu ý là việc mua lại
các cơ sở khác trong ngành với ý định xây dựng phần thị trường
thường là biểu hiện của sự xuất hiện đối thủ mới xâm
nhập.
Mặc dù không phải bao giờ doanh nghiệp cũng gặp phải đối
thủ cạnh tranh tiềm ẩn mới, song nguy cơ đối thủ mới hội
nhập vào ngành vừa chịu ảnh hưởng đồng thời cũng có ảnh hưởng
đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2.5 Sản phẩm thay thế.
Sức ép do
có sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành
do mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới các
sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh nghiệp có thể bị tụt lại
với các thị trường nhỏ bé. Thí dụ: như các doanh nghiệp sản
xuất máy chơi bóng bàn không chú ý tới sự bùng nổ của các trò
chơi điện tử. Vì vậy, các doanh nghiệp cần không ngừng nghiên
cứu và kiểm tra các mặt hàng thay thế tiềm ẩn.
Phần lớn
sản phẩm thay thế mới là kết quả của cuộc bùng nổ công
nghệ. Muốn đạt được thành công, các doanh nghiệp cần chú ý và
dành nguồn lực thích hợp để phát triển
hay vận dụng công nghệ mới vào chiến lược của mình.
Doanh nghiệp cần tồn tại, phát triển và đảm bảo tính
bền vững, điều đơn giản làệp ông có một doanh nghiệp nào
tồn tại vĩnh cửu nếu doanh nghiệp đó không xác định được
mục đích và mục tiêu hoạt động
cho chính nó. Hoạt động của doanh nghiệp chỉ có hiệu
quả một khi kế hoạch của nó gắn bó chặt chẽ với mục tiêu
để cho phép đạt được những mục đích. Kế hoạch đó đòi
hỏi phải được điều chỉnh kịp thời theo những biến động
của môi trường; đồng thời gắn bó với những khả năng cho phép
của doanh nghiệp như: vốn, lao động, công nghệ. Từ những kế
hoạch đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có cơ cấu tổ chức hợp lý,
xác định cụ thể nhiệm vụ cho từng bộ phận, cá nhân; đồng
thời phối hợp hoạt động nhằm đạt được mục đích của
doanh nghiệp.
Mục
đích của doanh nghiệp là thể hiện khuynh hướng tồn tại và phát
triển, doanh nghiệp có 3 mục đích cơ bản:
-
Mục đích kinh tế: Thu lợi nhuận, đây là mục đích quan
trọng hàng đầu của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh
doanh.
-
Mục đích xã hội: cung cấp hàng hoá và dịch vụ đáp ứng
nhu cầu xã hội. Đây là mục đích quan trọng hàng đầu của các
doanh nghiệp hoạt động công ích.
-
Mục đích thoả mãn các nhu cầu cụ thể và đa dạng của
mọi người tham gia hạot động trong doanh nghiệp.
Mục tiêu là biểu hiện mục đích của doanh nghiệp, là những mốc cụ thể được phát triển từng bước. Một mục tiêu là một câu hỏi cần có lời giải đáp trong một khoảng thời gian nhất định Yêu cầu đặt ra với mục tiêu là: Mục tiêu đạt được cần thoả mãn cả về số lượng và chất lượng, đồng thời với việc xác định được các phương tiện thực hiện. Mục tiêu của doanh nghiệp phải luôn bám sát từng giai đoạn phát triển của nó.
Quan niệm doanh nghiệp như một tổ chức sống cho thấy,
doanh nghiệp thành lập không phải tồn tại mãi mãi và bất
biến. Mỗi doanh nghiệp có lịch sử và bầu văn hoá của nó.
Những phương tiện sống cần thiết của doanh nghiệp là phương
tiện sản xuất, bao gồm các nguồn
nhân lực, tài chính, kỹ thuật. Là cơ thể sống, sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào sức khoẻ,
sự thích nghi của nó với môi trường sống.
Quan niệm doanh nghiệp là một hệ
thống mở, thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa doanh
nghiệp và môi trường sống của nó, đây là điều kiện ban đầu
và kết thúc của hoạt động doanh nghiệp. Đồng thời phản ánh
tổ chức chặt chẽ và quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
Mục đích hiệu quả kinh tế sẽ nhấn mạnh đến lý do
tồn tại chủ yếu của doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở để hình
thành các chức năng, tổ chức bộ máy hoạt động phù hợp cho
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được tạo
lập thường có 3 dạng: doanh nghiệp mới, doanh nghiệp được mua
lại, đại lý đặc quyền.
Thông
thường, việc tạo lập một doanh nghiệp mới
xuất phát từ ba lý do sau:
-
Nhà kinh doanh đã xác định được dạng sản phẩm (dịch
vụ) có thể thu được lãi.
-
Nhà kinh doanh có những điều kiện lý tưởng trong việc
lựa chọn địa điểm kinh doanh, phương tiện sản xuất kinh doanh,
nhân viên, nhà cung ứng, ngân hàng...
-
Lựa chọn hình thức doanh nghiệp mới có thể tránh được
các hạn chế nếu mua lại một doanh nghiệp có sẵn hoặc làm đại
lý đặc quyền.
Để
tạo lập một doanh nghiệp mới, điều vô cùng quan trọng là tìm
được một cơ hội, tạo
được một ưu điểm kinh doanh có khả năng cạnh tranh được
với các doanh nghiệp khác – đó chính là cơ hội kinh doanh thực
sự.
Nguồn
gốc của ý tưởng
dẫn đến việc tạo lập doanh nghiệp thường là:
-
Từ kinh nghiệm nghề nghiệp tích luỹ được ở doanh
nghiệp khác.
-
Sáng chế hoặc mua được bằng sáng chế để sản xuất san
phẩm mới
-
Từ những ý tưởng bất ngờ xuất hiện trong khi làm việc
khác hoặc đang vui chơi giải trí.
-
Từ các tìm tòi nghiên cứu.
Sau
khi đã có ý tưởng, sáng kiến trên, việc hoàn thiện một ý tưởng
kinh doanh sẽ có ý nghĩa quyết định thành công. Việc hoàn thiện
một ý tưởng kinh doanh, đó chính là đi đến một dự án kinh
doanh.
2.1 Việc mua
lại một
doanh nghiệp sẵn có xuất phát từ
3 lý do:
-
Muốn giảm bớt rủi ro của việc tạo lập một doanh
nghiệp mới
-
Tránh được việc phải xây dựng mới trong mua bán, giao
dịch với ngân hàng, đào tạo nhân viên mới
-
Ít tốn kém hơn so với lập ra một doanh nghiệp mới (đa
số trường hợp).
2.2 Các bước
tiến hành để
mua một doanh nghiệp sẵn có:
-
Điều tra: Việc điều tra doanh nghiệp định mua này có thể
thực hiện bằng cách trực tiếp tìm hiểu và trao đổi với chủ
doanh nghiệp đó. Cũng có thể bằng cách qua trao đổi với khách hàng,
các nhà cung ứng của doanh nghiệp, ngân hàng, đặc biệt thông qua
nhân viên kế toán, luật sư của doanh nghiệp đó.
-
Kiểm tra: Việc kiểm tra sổ sách của doanh nghiệp định mua
cần giao cho một kiểm toán viên độc lập để đảm bảo tính chính
xác.
-
Đánh giá: Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của donh
nghiệp định mua có thể căn cứ vào những điều sau:
·
Căn cứ vào
mức lãi tong quá khứ để tính mức lãi trong tương lai
·
Mức rủi
ro có thể xảy ra trong kinh doanh
·
Sự tín
nhiệm của khách hàng
·
Tình
trạng cạnh tranh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
·
Doanh
nghiệp định mua này có bị ràng buộc nào về cáchợp đòng đã
ký kết và các vụ tố tụng (đang xử và đã xử) hay không ?
-
Điều đình và ký kết: Việc điều đình giá cả, điều
kiện thanh toán và ký kết văn bản mua doanh nghiệp này nên thực
hiện với sự tư vấn của luật sư, theo đúng pháp luật.
Đại
lý đặc quyền: được quyền kinh doanh như một chủ sở hữu,
song phải tuân theo một số phương pháp và điều kiện do người
nhượng quyền quy định. Các quyền kinh doanh được ghi trong hợp
đồng giữa người nhượng đặc quyền và đại lý đặc quyền.
Giá trị của hợp đồng là ở chỗ: người làm đại lý đặc
quyền có được nhiều hay ít đặc quyền.
Những
đặc quyền này có thể là được dùng tên hiệu, hoặc biển
hiệu của người nhượng đặc quyền, cũng có thể được sử
dụng cả hệ thống tiếp thị của người này... .Tuy nhiên, đại
lý đặc quyền cũng vẫn được coi là doanh nghiệp độc lập,
trong đó có quyền tự thuê mướn nhân công, tự điều khiển
hoạt động kinh doanh. Thông thường có 3 loại hệ thống đại lý đặc quyền:
-
Người nhượng quyền là nhà sản xuất -
sáng lập trao quyền bán sản phẩm cho người đại lý là nhà
buôn sỉ.
-
Người nhượng quyền là nhà buôn sỉ và đại lý nhà bán
lẻ
-
Người nhượng quyền là nhà sản xuất – sáng lập và đại
lý là nhà bán lẻ, hệ thống này rất thông dụng hiện nay, như
đại lý bán ô tô, trạm xăng,
đại lý mỹ phẩm.
Đại
lý đặc quyền có những lợi thế sau:
-
Được
quyền dùng những nhãn hiệu đã nổi tiếng
-
Được người
nhượng quyền huấn luyện kinh doanh
-
Được người
nhượng quyền làm công việc quảng cáo
-
Được người
nhượng quyền bảo đảm cung cấp hàng hoá và có thể cung cấp tài
chính
Những lợi thế trên đây của đại lý đặc quyền chính là
những điều mà việc tạo lập một doanh nghiệp mới hay mua lại
một doanh nghiệp có sẵn thường gặp khó khăn. Tuy nhiên, đại lý
đặc quyền cũng thường chịu 3 giới hạn như sau:
-
Để có đặc quyền, người đại lý phải trả cho người
nhượng quyền các khoản tiền gồm: lệ phí đại lý và tiền
sử dụng đặc quyền.
-
Chịu giới hạn về sự phát triển doanh nghiệp: các hợp đồng
đại lý đặc quyền thường buộc đại lý chỉ được kinh doanh
trong một khu vực nhất định.
-
Mất tính tự chủ hoàn toàn trong kinh doanh
Trước
khi tạo lập một đại lý đặc quyền, nhà kinh doanh phải lượng
giá được cơ hội mua đại lý đặc quyền. Việc lượng giá này
bao gồm: Tìm đúng cơ hội, điều tra, khảo sát và nghiên cứu
kỹ hợp đồng đặc quyền.
Phá
sản doanh nghiệp được thực hiện theo Luật phá sản doanh
nghiệp (30/12/1993). Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là
doanh nghiệp gặp khó khăn g\hoặc bị thua lỗ trong họat động
kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà
vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Theo Nghị định 189
CP hướng dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp (23/12/1994), doanh
nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản,
nếu kinh doanh bị thua lỗ trong 2 năm liên tiếp, đến mức không
trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người
lao động và hợp đồng lao động trong 3 tháng liên tiếp.
Sau
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà
không được doanh nghiệp thanh toán nợ, chủ nợ không có bảo đảm
và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn đến tòa
án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu giải quyết
việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
1.
Doanh nghiệp là gì ? Các đặc trưng cơ bản của doanh
nghiệp ?
2.
Các loại hình doanh nghiệp ? Đặc điểm của từng loại hình
doanh nghiệp ?
3.
Bản chất và đặc điểm của hệ thống kinh doanh ?
4.
Phân tích ý nghĩa doanh nghiệp là đơn vị sản xuất ? Tại
sao nói doanh nghiệp vừa là đơn vị sản xuất vừa là đơn vị
phân phối ?
5.
Mục đích phân tích môi trường kinh doanh ?
Trình bày và liên hệ thực tế các yêu tố môi trường
ảnh hưởng đến họat động kinh doanh của doanh nghiệp ?
6.
Trình bày mục đích, mục tiêu của doanh nghiệp? Làm thế nào
để thành lập doanh nghiệp mới? Mua lại doanh nghiệp sẵn có ? So
sánh đại lý độc quyền với thành lập doanh nghiệp mới hoặc
mua lại doanh nghiệp sẵn có ?
7.
Thế nào là phá sản doanh nghiệp ? Dấu hiệu nào chứng tỏ
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản?