CHƯƠNG 3
MARKETING
TRONG
I.
KHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA MARKETING
III. HÀNH VI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG
IV.
PHÂN
KHÚC THỊ TRƯỜNG VÀ LỰA CHỌN THỊ TRƯỜNG MỤC TIÊU
VII.
CHÍNH SÁCH PHÂN PHỐI
VIII.
CHÍNH SÁCH XÚC
TIẾN BÁN HÀNG (CHIÊU THỊ)
Chương này
đề cập đến những vấn đề sau:
-
Định nghĩa, vai trò và quá trình
phát triển của marketing
-
Marketing hỗn hợp và quá trình
marketing
-
Hành vi của người tiêu dùng
-
Phân khúc thị trường, lựa
chọn thị trường mục tiêu
-
Chính sách sản phẩm
-
Giá và chính sách giá
-
Chính sách phân phối hàng hoá
-
Xúc tiến bán hàng
Thuật ngữ marketing được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1902 trên giảng đường trường Đại học Michigan ở Mỹ, đến năm 1910, tất cả các trường Đại học tổng hợp ở Mỹ bắt đầu giảng dạy môn học này. Suốt trong gần nửa thế kỷ, marketing chỉ được giảng dạy trong phạm vi các nước nói tiếng Anh. Mãi đến sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, vào những năm 50 và 60 của thế kỷ XX, nó mới được truyền bá sang Tây Âu và Nhật Bản. Quá trình quốc tế hoá của marketing đã phát triển rất nhanh. Ngày nay, các doanh nghiệp muốn kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao đều cần phải có sự hiểu biết và vận dụng marketing hiện đại.
-
Định nghĩa tổng quát
về marketing của Philip Kotler:
Marketing là một dạng
hoạt động của con người nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong
muốn của họ thông qua trao đổi.
Định nghĩa này bao trùm cả marketing trong sản xuất và
marketing xã hội. Để hiểu rõ hơn về định nghĩa trên, chúng ta
nghiên cứu một số khái niệm:
Nhu cầu (Needs): là một cảm giác về sự thiếu hụt một cái
gì đó mà con người cảm nhận được. Ví dụ: nhu cầu ăn,
uống, đi lại, học hành, giải trí... Nhu cầu này không phải do xã
hội hay người làm marketing
tạo ra, Chúng tồn tại như một bộ phận cấu thành của
con người.
Mong muốn (Wants) là sự ao ước có được những thứ cụ
thể để thoả mãn những nhu cầu sâu xa. Mong muốn của con người
không ngừng phát triển và được định hình bởi các điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội... như trường học; nhà thờ,
chùa chiền; gia đình, tập
thể và các doanh nghiệp kinh doanh. Mong muốn đa dạng hơn nhu cầu
rất nhiều. Một nhu cầu có thể có nhiều mong muốn. Các doanh
nghiệp thông qua hoạt động marketing
có thể đáp ứng các mong muốn của khách hàng để thực hiện
mục tiêu của mình.
Trao đổi là hành vi nhận từ một người hoặc một tổ
chức nào đó thứ mà mình muốn và đưa lại cho người hoặc tổ
chức một thứ gì đó.
Trao đổi là quá trình, chỉ xảy ra khi có các điều kiện:
-
Ít nhất phải có hai bên, mỗi bên
phải có một thứ gì đó có thể có giá trị với bên kia
-
Mỗi bên đều có khả năng giao
dịch và chuyển giao hàng hoá, dịch vụ hoặc một thứ gì đó
của mình
-
Mỗi bên đều mong muốn trao đổi
và có quyền tự do chấp nhận hay khước từ đề nghị của bên
kia, hai bên thoả thuận được những điều kiện trao đổi.
"Marketing
là quá trình xác định tham gia và sáng tạo ra nhu cầu mong muốn
tiêu thụ sản phẩm và tổ chức tất cả nguồn lực của công ty
nhằm làm hài lòng người tiêu dùng để đạt được lợi nhuận
hiệu quả cho cả công ty và người tiêu dùng" (G. F. Goodrich ).
Nói chung có rất nhiều quan niệm về Marketing tuy nhiên chúng
ta có thể chia làm hai quan niệm đại diện, đó là quan niệm
truyền thống và quan niệm hiện đại.
Quan niệm truyền thống:
Bao gồm các hoạt động sản xuất kinh doanh, liên quan đến
việc hướng dòng sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu
thụ một cách tối ưu.
Quan niệm Marketing hiện đại:
Là chức năng quản lý công ty về mặt tổ chức và quản lý
toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ việc phát hiện
ra và biến sức mua của người tiêu thụ thành nhu cầu thật sự
về một sản phẩm cụ thể, đến việc chuyển sản phẩm đó
tới người tiêu thụ một cách tối ưu
Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó
mà các cá nhân và tập thể có được những gì họ cần và mong
muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi những sản
phẩm có giá trị với những người khác.
Khái
niệm marketing nên được biểu hiện rõ sự chỉ dẫn hướng đến
con đường lập kế hoạch, giúp doanh nghiệp
phân tích, cực đại hoá lợi nhuận và làm thoả mãn nhu
cầu tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến
những điểm mạnh và những điểm yếu của nó trong các lĩnh
vực chức năng hoạt động
khác như:sản xuất, tài chính,
kỹ thuật và nhân sự. Các kế hoạch marketing cần phải tạo cân
bằng các mục tiêu, nhu cầu tiêu thụ và khả năng nguồn lực
của doanh nghiệp
Muốn
thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp và các nhà kinh doanh
cần hiểu biết cặn kẽ về thị trường, về những nhu cầu và
mong muốn của khách hàng, về nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh.
Ngày
nay, các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường cạnh
tranh quyết liệt và có những thay đổi nhanh chóng về khoa học
– công nghệ, những đạo luật mới, những chính sách quản lý
thương mại mới và sự trung thành của khách hàng
ngày càng giảm sút. “Các công ty đang phải chạy đua với
nhau trên một tuyến đường với những biển báo và luật lệ luôn
thay đổi, không có tuyến đích, không có chiến thắng vĩnh cửu.
Họ buộc phải không ngừng chạy đua và hy vọng là mình đang
chạy theo đúng hướng mà công chúng mong muốn”.
Marketing là một bộ môn khoa học nghiên cứu về các
hoạt động kinh doanh có liên quan trực tiếp đến dòng chuyển
vận của hàng hoá - dịch vụ từ nơi sản xuất
tới người tiêu dùng, nhằm tìm ra các biện pháp hữu hiệu
để bảo vệ, duy trì và phát triển thị trường. Marketing còn áp
dụng trong nhiều lĩnh vực xã hội. Philip Kotler
đã viết: “ Trong thế giới phức tạp ngày nay, tất cả chúng
ta đều phải am hiểu marketing. Khi bán một chiếc máy
bay, tìm kiếm việc làm, quyên góp tiền cho mục đích từ thiện,
hay tuyên truyền một ý tưởng,
chúng ta đã làm marketing...
Kiến thức về marketing cho
phép xử trí khôn ngoan hơn ở cương vị người tiêu dùng, dù là
mua kem đánh răng, một con gà đông lạnh, một chiếc máy vi tính
hay một chiếc ô tô... Marketing đụng chạm đến lợi ích của
mỗi người chúng ta trong suốt cả cuộc đời”3.
Marketing áp đặt rất mạnh mẽ đối với lòng tin và kiểu
cách sống của người tiêu dùng. Vì thế, hững người kinh doanh tìm
cách để làm thoả mãn nhu cầu mong muốn của người tiêu dùng,
tạo ra những sản phẩm và dịch vụ với mức giá cả mà người
tiêu dùng có thể thanh toán được.
Phạm vi sử dụng marketing rất
rộng rãi, marketing liên quan đến nhiều lĩnh vực như: hình
thành giá cả, dự trữ, bao bì đóng gói, xây dựng nhãn hiệu,
hoạt động và quản lý bán hàng, tín dụng, vận chuyển, trách
nhiệm xã hội, lựa chọn nơi bán lẻ, phân tích người tiêu dùng,
hoạt động bán sỉ, bán lẻ, đánh giá và lựa chọn người mua hàng
công nghiệp, quảng cáo, mối quan hệ xã hội, nghiên cứu
marketing, hoạch định và bảo hành sản phẩm.
3.1
Các thời kỳ phát triển của marketing
Nguồn gốc của Marketing được
lần theo việc sử dụng ngay từ ban đầu của con người đối
với quá trình trao đổi hàng hoá.
- Năm 1650, lần đầu tiên trên thế giới, ông Mitsui-một thương
gia ở Tokyo (Nhật Bản) đã có những sáng kiến liên quan đến
hoạt động của marketing như sau: Ông đã thiết kế và sản xuất
ra những mặt hàng bền, đẹp cho khách hàng. Ông đã đề ra
những nguyên tắc làm vui lòng khách hàng, không để họ thắc
mắc, họ có quyền lựa chọn khi mua hàng, khi đã giao tiền lấy hàng
rồi mà vẫn không thích thì được trả lại hàng. Ông thường
xuyên theo dõi và ghi chép cẩn thận để biết mặt hàng nào bán
nhanh và hàng nào ứ đọng, từ đó ông đổi mới hàng hoá để
phù hợp với nhu cầu người mua.
- Cyrus H.M.C Lormick (1809 - 1884) là người đầu tiên ở phương
Tây nghiên cứu marketing rất kỹ lưỡng. Ông cho rằng marketing là
một chức năng tập trung và thống nhất của các công ty thương
mại là một công việc đặc biệt của quản lý nhằm tìm ra và
thu hút khách hàng. Ông đã sáng tạo ra những công cụ cơ bản
của marketing hiện đại như: nghiên cứu và phân biệt thị trường,
nội dung và cơ cấu của thị trường, chính sách giá cả, chính sách
bán hàng, xúc tiến bán hàng, tín dụng,...
- Năm 1905, W.E.Krensi đã dạy một khoá marketing các sản
phẩm ở trường Đại học Tổng hợp Pennsylvania (Mỹ).
- Năm 1910, Ralph Star Butler đã dạy một khoá " Phương pháp
Marketing" ở trường đại học tổng hợp Wisconsin (Mỹ).
- Năm 1916, Công ty cao su Mỹ đã thành lập phòng nghiên cứu
Marketing. Nhiệm vụ của phòng này là cung cấp thông tin để phòng
giao dịch bán hàng được dễ dàng. Sau đó phòng Marketing được
giao thêm nhiều nhiệm vụ như: Xúc tiến bán hàng, quảng cáo, xây
dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm, chính sách giá cả, nghiên
cứu nhu cầu khách hàng, bao bì...
- Marketing đúng theo ý nghĩa của nó xuất hiện từ những năm
đầu của thế kỷ 20 ở Mỹ, phát triển từ cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới 1929 - 1932, đặc biệt sau chiến tranh thế giới
thứ hai.
Trong những năm 30 và 40 của thế kỷ 20, marketing và những
vấn đề của nó đã xuất hiện ở châu Âu. Nhiều cơ sở
marketing được hình thành ở Anh, Đức và nhiều nước khác. Mục
đích chính của Marketing trong giai đoạn này là hoàn thiện những
phương pháp, kỹ thuật lưu thông hàng hoá. Chính vì vậy mà có
một thời thương mại và marketing được sử dụng như những từ
đồng nghĩa.
Sự phức tạp của sản xuất tiêu thụ sản phẩm trong
những năm 50 và 60, cũng như sự cạnh tranh gay gắt của thị trường
tư bản chủ nghĩa càng làm tăng vai trò, ý nghĩa của marketing
trong quản trị kinh doanh. Hàng loạt viện khoa học, cơ sở
marketing, văn phòng tư vấn được thành lập trong các công ty.
Vào
những năm 70, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt,
nhiệm vụ của marketing ngày càng phức tạp, lĩnh vực áp dụng
marketing ngày được mở rộng. Nó không chỉ được sử dụng
trong các xí nghiệp, công ty, mà còn được sử dụng trong quản lý
toàn bộ xã hội tư bản. Nhiệm vụ chủ yếu của marketing trong
giai đoạn này là đảm bảo đến mức cao nhất lợi nhuận độc
quyền nhà nước, thông qua việc sử dụng hoạt động kinh doanh năng
động và cụ thể của các xí nghiệp, công ty, tập đoàn.
Khái quát lại, sự phát triển của marketing đã phải trải
qua nhiều giai đoạn để cuối cùng đưa đến hệ thống marketing
được hình thành vững chắc hơn trong thị trường cạnh tranh và
được tóm tắt qua sơ dồ 3.1
3.2
Hoạt động bán hàng và những triết lý marketing
Sơ
đồ 3.2 mô tả sự khác nhau
giữa hoạt động bán hàng và triết lý marketing. Marketing
tập trung vào sự phân tích người tiêu dùng và làm thoả mãn
họ, tác động trực tiếp trong kinh doanh sử dụng nguồn tài nguyên
để sản xuất ra những sản phẩm và dịch vụ mà khách hàng đòi
hỏi, kích thích đến sự thay đổi của những đặc điểm và nhu
cầu tiêu thụ sản phẩm của người tiêu dùng. Dưới góc độ
triết lý marketing, thì hoạt động bán hàng được sử dụng để
nhằm tiếp cận người tiêu dùng và hiểu biết họ thêm. Thực
vậy, vấn đề không hài lòng của người tiêu dùng sẽ đưa đến
sự thay đổi trong chính sách của công ty từ đó mang lại doanh
số bán hiệu quả hơn sau khi điều chỉnh.
Marketing hỗn hợp (marketing – mix) là sự phối hợp hay sắp
xếp các thành phần của marketing sao cho phù hợp với hoàn cảnh kinh doanh thực tế
của mỗi doanh nghiệp nhằm củng cố vững chắc vị trí của
doanh nghiệp trên thương trường. Nếu sự phối hợp hoạt động
những thành phần marketing được nhịp nhàng và đồng bộ thích
ứng với tình huống của thị trường đang diễn tiến thì công
cuộc kinh doanh của doanh nghiệp sẽ trôi chảy, hạn chế sự
xuất hiện những khả năng rủi ro và do đó mục tiêu sẽ đạt
được là lợi nhuận tối đa. Nhà quản trị tài năng là nhà tổ
chức, điều hành phối hợp các thành phần marketing trong một
chiến lược chung đảm bảo thế chủ động với mọi tình huống
diễn biến phức tạp của thị trường.
2.1
Sản phẩm (product):
Sản phẩm bao gồm sản phẩm hữu hình
và dịch vụ (mang tính chất vô hình). Nội dung nghiên cứu
về chính sách sản phẩm trong marketing gồm:
-
Xác định chủng loại kiểu dáng , tính năng tác dụng của
sản phẩm
-
Các chỉ tiêu chất lượng
-
Màu sắc sản phẩm, thành phần
-
Nhãn hiệu sản phẩm
-
Bao bì sản phẩm
-
Chu kỳ sống sản phẩm
-
Sản phẩm mới
Thiết kế sản phẩm phải dựa trên cơ sở của những kết
luận nghiên cứu thị trường nhằm bảo đảm cung cấp sản phẩm
thoả mãn nhu cầu, thị hiếu và các yêu cầu khác xuất hiện
trong quá trình lựa chọn sản phẩm cho người tiêu dùng.
2.2
Giá cả (price): Số
tiền mà khách hàng phải trả khi mua hang hóa hoặc dịch vụ. Nội
dung nghiên cứu của chính sách giá trong họat động marketing
gồm:
- Lựa chọn chính sách giá và định giá
- Nghiên cứu chi phí sản xuất kinh doanh làm cơ sở cho việc
định giá
- Nghiên cứu giá cả hang hóa cùng loại trên thị trường
- Nghiên cứu cung cầu và thị hiếu khách hang để có quyết
định về giá hợp lý
- Chính sách bù lỗ
- Điều chỉnh giá theo sự biến động của thị trường
2.3
Phân phối (place): Là quá trình đưa hàng hoá từ nơi
sản xuất đến nơi tiêu dùng qua hai dạng: Các kênh phân phối và
phân phối trực tiếp. Nội dung nghiên cứu về chính sách phân
phối trong marketing bao gồm:
- Thiết kế và lựa
chọn kênh phân phối hàng hóa
- Mạng lưới phân
phối
- Vận chuyển và dự
trữ hàng hóa
- Tổ chức họat động
bán hàng
- Các dịch vụ sau khi bán
hàng (lắp đặt, bảo hành, cung cấp phụ tùng…)
- Trả lương cho nhân viên
bán hang
- Trưng bày và giới thiệu hàng hóa
2.4
Yểm trợ bán hàng (promotion): Là tập hợp những
hoạt động mang tính chất thông tin nhằm gây ấn tượng đối
với người mua và tạo uy tín đối với doanh nghiệp. Nó được
thực hiện thông qua những hình thức như quảng cáo, chào hàng,
tổ chức hội chợ, triển lãm, các hình thức khuyến mãi, tuyên
truyền, cổ động và mở rộng quan hệ với công chúng.... Những
hoạt động yểm trợ phải thích hợp với từng hoàn cảnh, điều
kiện cụ thể nhằm hướng vào phục vụ tối đa những mong muốn
của khách hàng. Vì vậy, biết chọn lựa những hình thức phương
tiện thích hợp cho từng hoạt động yểm trợ, tính toán ngân sách
yểm trợ đối với từng mặt hàng có tầm quan trọng đặc biệt
trong kinh doanh. Chiến lược 4P được tóm tắt theo sơ đồ 3.3
Hoạt động Marketing hỗn hợp trong kinh doanh được biểu
hiện khá uyển chuyển và linh hoạt. Thực vậy, trong quá trình
vận dụng, cơ cấu của marketing hỗn hợp chịu tác động bởi nhiều nhân tố chi
phối mang tính quyết định, những nhân tố ấy bao gồm:
3.1 Uy tín và vị trí
của doanh nghiệp trên thị trường: Tâm lý mua hàng của khách hàng
thường theo sự tín nhiệm về nhãn hiệu sản phẩm mà họ quen
sử dụng. Sự tín nhiệm của khách hàng đối với doanh nghiệp thông
qua sản phẩm càng lớn thì uy tín và vị trí của doanh nghiệp
trên thị trường càng cao.
Chẳng hạn, cùng một loại sản phẩm do hai công ty sản
xuất ra; sản phẩm của công ty A có thể trội hơn, giá cả có
phần rẻ hơn so với sản phẩm của công ty B song lại khó bán, vì
lẽ từ lâu khách hàng đã quen dùng sản phẩm của công ty B nên
sản phẩm của công ty này sản xuất ra dễ dàng chiếm lĩnh thị
trường mạnh hơn sản phẩm của công ty A.
3.2
Tình huống của thị trường: Sự hình thành và
chuyển hoá từ hình thái thị trường này sang hình thái thị trường
khác trong nền kinh tế thị trường đối với một loại hàng hoá
nào đó sẽ tạo nên những tình huống kinh doanh khác nhau với
những ứng phó không giống nhau giữa các nhà kinh doanh. Chẳng
hạn, đối với một loại sản phẩm ở giai đoạn này nằm trong
hình thái thị trường độc quyền, song ở thời kỳ khác có thể
nằm trong hình thái thị trường cạnh tranh. Vì vậy ứng với
từng tình huống cụ thể của thị trường, đòi hỏi nhà kinh
doanh phải có những đối sách thích hợp để cho sản phẩm của
mình tham gia vào thị trường vừa đạt được lợi nhuận vừa
thoả mãn được nhu cầu.
3.3
Vòng đời sản phẩm: Một sản phẩm từ khi xuất
hiện trên thị trường cho đến khi rút khỏi thị trường đều
phải trải qua những giai đoạn nhất định. Nội dung hoạt động
kinh doanh ở mỗi giai đoạn khác nhau đều không giống nhau. Sự
nhận định sai về giai đoạn của vòng đời sản phẩm tất yếu
dẫn đến việc xây dựng nội dung hoạt động kinh doanh không đúng
và do đó sự thất bại là không thể tránh khỏi.
3.4
Tính chất hàng hoá: Căn cứ vào tính chất của mỗi
loại hàng hoá mà nhà kinh doanh có cách tổ chức những hoạt động
kinh doanh thích hợp. Thật vậy, nếu tổ chức kinh doanh mặt hàng
thực phẩm, nhân viên bán hàng không cần thiết phải am hiểu kỹ
thuật chế biến và mặt hàng được bày bán trong các cửa hàng
tổng hợp. Ngược lại, nếu
kinh doanh mặt hàng điện máy đòi hỏi phải có cửa hàng chuyên
dụng và nhân viên giới thiệu mặt hàng phải am hiểu kỹ thuật
và công nghệ của sản phẩm
Như
đã nêu ở trên: Nhu cầu là một cảm giác về sự thiếu hụt
một cái gì đó mà con người cảm nhận được.
Theo
A. Maslow: nhu cầu của con người được sắp xếp theo thứ bậc,
từ cấp thiết nhất đến ít cấp thiết, tuy nhiên trong thực tế
không phải lúc nào cũng đúng như vậy.
Động
cơ là trạng thái căng thẳng thúc đẩy cá nhân làm một cái gì
đó để giảm bớt cảm giác thiếu thốn, tức là có thể làm
thỏa mãn một nhu cầu.
Lý thuyết động cơ của Freud: những lực lượng tâm lý
thực tế định hình hành vi của con người phần lớn là vô
thức. Theo Freud, con người đã phải kìm nén biết bao nhiêu ham
muốn trong quá trình lớn lên và chấp nhận những quy tắc xã
hội. Những ham muốn này không bao giờ biến mất hoặc bị kiểm
soát hoàn toàn. Chúng xuất hiện trong giấc mơ, khi lỡ lời, trong
hành vi bộc phát.
Lý
thuyết động cơ của Herzberg: ông đã xây dựng một lý thuyết
"hai yếu tố" để phân biệt những nhân tố không hài
lòng và nhân tố hài lòng.
Động cơ thúc đẩy tiêu dùng chung nhất là do người tiêu dùng
có nhu cầu cần được thỏa mãn. Động cơ tích cực sẽ thúc đẩy
tiêu dùng, còn động cơ tiêu cực sẽ là một phanh hãm.
2.1 Động cơ tích cực:
H. Joannis phân chia 3 loại động cơ tích cực thúc đẩy tiêu dùng:
2.1.1 Động cơ hưởng thụ: Đó
là những thúc đẩy mua hàng để có được những thú vui, hưởng
thụ và tận hưởng. Ví dụ: ăn uống, giải trí, du lịch, vui chơi…
2.1.2 Động cơ vì người khác:
Đó là những thúc đẩy mua nhằm làm việc tốt, việc thiện
hoặc tặng một cái gì đó cho người khác
2.1.3
Động cơ tự thể hiện: Đó là những thúc đẩy mua hàng
nhằm muốn thể hiện cho mọi người biết rõ mình là ai. Ví dụ:
một số trẻ em hút thuốc lá hoặc uống rượu bia muốn tỏ ra mình
cũng là người lớn rồi…
2.2 Phanh hãm
Động cơ tiêu cực là
những phanh hãm làm cho người tiêu dùng không mua hàng tự kìm
chế không mua hàng mặc dù có nhu cầu vì nhiều lý do:
-
Chất lượng sản phẩm dịch vụ kém
-
Sản phẩm không đẹp, lạc hậu về mốt
-
Không rõ về chất lượng sản phẩm, dịch vụ
-
Giá cao là một phanh hãm lớn đối với người tiêu dùng
-
Phanh hãm vì lý do bệnh lý, sản phẩm, dịch vụ ảnh hưởng
không tốt đến sức khỏe
-
Phanh hãm vì lý do tôn giáo.
Nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng là nhằm giải thích
quá trình mua hay không mua một
loại hàng hóa nào đó. Trên
cơ sở nghiên cứu này, doanh nghiệp có thể đề ra chính sách
marketing hợp lý trong
sản xuất kinh doanh của mình.
3.1
Các yếu tố ảnh hưởng hành vi người tiêu dùng
Bảng 3.1
Mô hình hành vi của người tiêu dùng
Các
tác nhân marketing |
Các
tác nhân khác |
Đặc
điểm người mua |
Quá
trình quyết định của người mua |
Quyết
định của người mua |
-
Sản phẩm -
Giá -
Địa điểm -
Cổ động |
-
Kinh tế -
Công nghệ -
Chính trị -
Văn hoá |
-
Văn hoá -
Xã hội -
Cá tính -Tâm
lý |
-
Nhận thức vấn đề -
Tìm kiếm thông tin -
Đánh giá -
Quyết định -
Hành vi mua sắm |
-
Lựa chọn sản
phẩm -
Lựa chọn nhãn hiệu -
Lựa chọn đại lý -
Định thời gian mua -
Định số lượng mua |
Các yếu tố văn hoá có
ảnh hưởng sâu rộng nhất
đối với hành vi của người tiêu dùng. Vai trò của nền văn
hoá, nhánh văn hoá và giai tầng xã hội nơi người tiêu dùng cần
được nghiên cứu vì các yếu tố này là một bộ phận không tách
rời của môi trường văn hoá. Văn hoá là nguyên nhân căn bản
dẫn đến nhu cầu và hành vi của một người.
Văn
hoá |
|
|
|
|
Nền
văn hoá Nhánh
văn hoá Tầng
lớp xã hội |
Xã
hội |
|
|
|
Nhóm
tham khảo Gia
đình Vai
trò và địa vị |
Cá
nhân |
|
|
|
Tuổi
và giai đoạn của chu kỳ sống Nghề
nghiệp Hoàn
cảnh kinh tế Lối
sống Nhân
cách và tự ý thức |
Tâm
lý |
|
||
Động
cơ Nhận
thức Hiểu
biết Niềm
tin và thái độ |
Người
mua |
.
Mỗi nền văn hoá bao gồm các nhóm nhỏ hơn, hay các nhánh văn
hoá tạo ra sự xã hội hoá và
đặc điểm cá nhân rõ nét hơn của các thành viên trong nhóm. Có
bốn loại nhánh văn hoá lớn nhất là: dân tộc,
tôn giáo, chủng tộc
và các nhóm có xuất xứ từ từ các vùng địa lý nhất định.
Tầng lớp xã hội: bao gồm những thành viên có chung những giá
trị, mối quan tâm và hành vi.
3.1.2
Những
yếu tố xã hội
Hành vi của người tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng của các
yếu tố xã hội như các nhóm liên quan, gia đình, vai trò và địa
vị xã hội. Những nhóm có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp đến thái độ và hành vi của một người nào đó được
gọi là nhóm liên quan (nhóm tham khảo).
Các thành viên trong gia đình người mua có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến hành vi mua sắm của người đó.
3.1.3 Quyết định của người
mua còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố đặc điểm cá
nhân bao gồm tuổi tác và giai đoạn của chu trình đời sống,
nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế, phong cách sống, nhân cách và
lẽ sống của con người
3.1.3
Những yếu tố tâm lý
Sự
lựa chọn của người tiêu dùng khi mua sắm
còn chịu ảnh hưởng của những yếu tố tâm lý.
3.2
Nghiên cứu quá trình quyết
định mua sắm
Sự
hiểu biết về nhu cầu của khách hàng và quá trình mua hàng của
họ là cơ sở đảm bảo cho các hoạt động marketing đạt
được thành công. Qua việc phân tích quá trình tâm lý của khách
hàng từ lúc ý thức nhu cầu, khảo sát thông tin, đánh giá phương
án lựa chọn đến khi đi đến quyết định mua sắm và được
biết đến mặt hàng nhà tiếp thị có thể thu lượm được
nhiều thông tin để xác định chương trình marketing hữu hiệu đáp
ứng nhu cầu khách hàng đối với thị trường mục tiêu của
doanh nghiệp.
“Thị trường là tập hợp các cá nhân và tổ chức hiện
đang có nhu cầu mua và có nhu cầu đòi hỏi cần được thỏa mãn”
( Philip Kotler)
Phân khúc thị trường hoặc cắt lát thị trường : là
tiến hành phân chia thị trường thành nhữg bộ phận người tiêu
dung theo một số tiêu chuẩn nào đó trên cơ sở những quan điểm
khác biệt về nhu cầu, ví dụ phân chia theo lứa tuổi, theo giới
tính, theo thu nhập, theo nghề nghiệp, theo nơi cư trú…
Khúc thị trường là một nhóm người tiêu dùng có phản
ứng như nhau đối với cùng một tập hợp những kích thích của
marketing.
Thực chất của phân khúc thị trường là tiến hành phân
chia thị trường thành một số đơn vị nhỏ (đoạn hay khúc) khác
biệt nhau. Mỗi đoạn thị trường có tính chất đồng nhất. Qua
phân khúc thị trường, các doanh nghiệp mới có thể xây dựng
chiến lược marketing một cách phù hợp. Phân khúc thị trường là
vấn đề sống còn của các doanh nghiệp có sản phẩm cạnh tranh.
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
cần đa dạng hóa các loại sản phẩm, dịch vụ của mình,
đáp ứng các nhu cầu muôn vẻ của các nhóm khách hàng khác nhau.
Thị trường rất đa dạng, có thị trường đơn đoạn, có
thị trường đa đoạn. Doanh nghiệp có thể không cần phân khúc
thị trường khi các chính sách marketing không cần phân biệt đối
với các nhóm khách hàng, khi sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp đáp ứng mọi nhu cầu cho mọi người tiêu dung. Đó là
những sản phẩm ít có sự phân biệt của các nhóm khách hàng như
: bột mỳ, đường, muối, cát và sắt thép xây dựng..
Doanh nghiệp có thể chỉ đưa ra một loại sản phẩm cho
một đoạn thị trường, như sản xuất một loại sữa cho một
lứa tuổi; hãng RollsRoyce chỉ sản xuất loại ô tô cao cấp, sang
trọng; hãng Porsche chỉ sản
xuất ô tô thể thao…
Không phải tất cả các phân đoạn thị trường đều hữu
ích như nhau, chẳng hạn như không cần thiết phải phân biệt nam
hay nữ khi dùng thuốc kháng sinh hay thuốc trị nhức đầu, nếu
cả hai nhóm người
tiêu dùng này phản ứng như nhau đối với những kích thích của
marketing. Tuy nhiên, những người tiêu dùng lựa chọn thuốc
tác dụng mạnh nhất không phân biệt giá cả
tạo thành một đoạn thị trường. Đoạn thị trường khác
gồm những người quan tâm trướchết đến giá cả. Cần phải
vạch rõ ranh giới của tất cả những đoạn thị trường mục tiêu bằng cách mô tả chúng trên cơ sở
những đặc điểm khác nhau vốn có của chúng để đánh giá mức
độ hấp dẫn của từng đoạn thị trường và đề ra chiến lược
marketing phù hợp với mỗi phân khúc
- Doanh nghiệp nào tiến hành phân khúc thị trường và nghiên
cứu tỷ mỉ các đoạn thị trường sẽ có một vị trí mạnh hơn so với các đối
thủ cạnh tranh
-
Nghiên cứu tỷ mỉ các đoạn thị trường doanh nghiệp sẽ
đề ra chiến lược marketing đúng đắn.
-
Các họat động marketing có hiệu quả hơn ở mỗi đoạn
thị trường đã được nghiên cứu sâu sắc.
Các
doanh nghiệp có thể đồng thời kết hợp nhiều tiêu chuẩn để
tiến hành phân khúc thị trường.
Thị trường mục tiêu bao gồm một nhóm khách hàng (cá nhân
và tổ chức) mà chương trình marketing của người bán hàng hóa
nhằm vào. Một doanh nghiệp có thể có một hay nhiều thị trường
mục tiêu.
Việc lựa chọn các đoạn thị trường mục tiêu cần tính
đến các yếu tố sau đây:
3.1 Khả năng tài chính của doanh nghiệp:
nếu khả năng tài chínhcó hạn thì hợp lý nhất
là tập trung vào một đoạn thị trường nào đó (chiến lược
marketing tập trung).
3.2
Đặc
điểm về sản phẩm: doanh nghiệp có thể chiếm lĩnh tất
cả đoạn thị trường (chiến lược
marketing không phân biệt) với những sản phẩm đơn
điệu như
trái bưởi
hay thép. Đối với mặt hàng có thể khác nhau về kết cấu như:
máy ảnh, ô tô, xe máy… thì chiến lược
marketing tập trung hay còn
gọi là chiến lược
marketing có phân biệt là phù hợp hơn.
3.3 Chu kỳ sống sản phẩm
Khi
doanh nghiệp đưa
một sản phẩm mới ra thị trường
thì chỉ nên chào bán theo phương
án sản phẩm mới, có thể
sử dụng chiến lược
marketing không phân biệt hay marketing tập trung.
3.4 Mức
độ đồng nhất của thị trường
Nếu
người
mua đều có thị hiếu như
nhau thì họ sẽ mua cùng số lượng
hàng hóa trong cùng một khỏang thời gian
và phản ứng như
nhau đối với những kích thích về marketing thì nên sử dụng
chiến lược
marketing không phân biệt.
3.5 Những chiến lược
marketing của đối thủ cạnh tranh:
nếu các đối thủ cạnh tranh tiến hành phân đoạn thị trường
và có chiến lược
marketing phân biệt cho mỗi đoạn thị trường
thì việc sử dụng chiến lược
marketing không phân biệt có thể sẽ thất bại. Ngược
lại, nếu các đối thủ cạnh tranh sử dụng chiến lược
marketing không phân biệt thì doanh nghiệp có thể sử dụng chiến
lược
marketing phân biệt hay chiến lược
marketing tập trung.
Sản
phẩm là tất cả những cái gì có thể đưa ra thị trường
để tạo ra sự chú ý , mua sắm, sử dụng hay tiêu thụ
nhằm thoả mãn một chu cầu hay mong muốn.
Sản phẩm có thể là những vật thể hữu hình, những
dịch vụ mang tính vô hình , những địa điểm (cho thuê địa điểm,
thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh), phát minh, sáng chế...
Khi tạo ra sản phẩm, các doanh nghiệp cần nhận thức đầy
đủ về 3 mức độ của nó
nhằm thoả mãn những mong đợi
của người tiêu dùng .
2.Vai
trò, vị trí của chiến
lược sản phẩm |
Chiến
lược sản phẩm có vị trí cực kỳ quan trọng, là nền tảng, xương
sống của 4P, giúp doanh nghiệp xác định phương hướng đầu tư,
thiết kế sản phẩm phù hợp thị hiếu, hạn chế rủi ro, thất
bại; chỉ đạo thực hiện
hiệu quả các P còn lại trong marketing hỗn hợp.
Chu
kỳ đời sống (vòng đời) sản phẩm ( trãi qua 4 giai đoạn chủ
yếu)
-
Giai đoạn 1: Ra đời, Bắt đầu xuất hiện sản phẩm mới
trên thị trường, mức tiêu thụ sản phẩm còn thấp, trong khi đó
chi phí sản xuất kinh doanh lớn, do vậy lợi nhận có giá trị âm.
-
Giai đoạn 2: Phát
triển, sản phẩm/dịch vụ có mức tiêu thụ tăng nhanh, sản
xuất kinh doanh bắt đầu có lãi.
-
Giai đoạn 3: Trưởng
thành, sản lượng tiêu thụ đạt tối đa, lợi nhuận cũng đạt
tối đa và bắt đầu giảm dần.
-
Giai đoạn 4: Suy
thoái, mức tiêu thụ giảm nhanh, lợi nhuận giảm.
Đặc
điểm và các chiến lược marketing tương ứng với từng giai đoạn
của chu kỳ sống sản phẩm được tóm tắt trong bảng 3.3
Bảng 3.3
Đặc điểm và các chiến lược marketing
Giai
đoạn |
ĐẶC
ĐIỂM |
CÁC
CHIẾN LƯỢC VÀ NỔ LỰC |
GIỚI
THIỆU |
+
Doanh thu tăng chậm, khách hàng chưa biết nhiều đến SP +
Lợi nhuận là số âm, thấp +
Sản phẩm mới, tỉ lệ thất bại khá lớn +
Cần có chi phí để hoàn thiện sản phẩm và nghiên cứu
thị trường |
+
Chuẩn bị vốn cho giai đoạn sau +
Cũng cố chất lượng sản phẩm +
Có thể dùng chiến lược giá thâm nhập hay giá lướt qua
thị trường +
Hệ thống phân phối vừa đủ để phân phối và giới
thiệu sản phẩm +
Quảng cáo mang tính thông tin, có trọng điểm: người tiêu dùng,
thương lái trung gian |
PHÁT
TRIỂN |
+
Doanh thu tăng mạnh, lợi nhuận tăng khá +
Chi phí và giá thành giảm +
Thuận lợi để tấn công vào thị trường mới nhằm tăng
thị phần +
Cần chi phí nghiên cứu, cải tiến “CẦN
TRANH THỦ KÉO DÀI” |
+
Nhanh chóng xâm nhập mở rộng thị trường +
Duy trì công dụng chất lượng sản phẩm +
Giữ giá hay giảm nhẹ giá +
Mở rộng kênh phân phối mới +
Chú ý các biện pháp kích thích tiêu thụ: quảng cáo chiều sâu,
tặng phẩm, thưởng, hội chợ triển lãm |
TRƯỞNG
THÀNH |
+
Doanh thu tăng chậm, lợi nhuận giảm dần +
Hàng hóa bị ứ đọng ở một số kênh phân phối +
Cạnh tranh với đối thủ trở nên gay gắt “CẦN
TRANH THỦ KÉO DÀI” |
+
Định hình qui mô kinh doanh +
Cải tiến biến đổi SP, chủng loại, bao bì, tăng uy tín,
chất lượng sản phẩm +
Cố gắng giảm giá thành để cóï thể giảm giá mà không
bị lỗ +
Cũng cố hệ thống phân phối, chuyển vùng tìm thị trường
mới +
Tăng cường quảng cáo nhắc nhở và các biện pháp khuyến mãi
để giữ chân khách hàng |
Suy
THOÁI |
+
Doanh thu và lợi nhuận giảm mạnh, nếu không có biện pháp tích
cực dễ dẫn đến phá sản +
Hàng hóa bị tẩy chay, không bán được +
Đối thủ rút khỏi thị trường |
+
Chuẩn bị tung SP mới thay thế +
Theo dõi và kiểm tra thường xuyên hệ thống phân phối,
ngừng sản xuất kịp thời, đổi mới “gối đầu lên
nhau” +
Có thể giẫy chết bằng: cải tiến SP mô phỏng, hạ giá, tìm
thị trường mới để thu hồi vốn |
4.1
Nhãn hiệu
là tên
gọi, ngôn ngữ, chữ viết, biểu tượng, hình ảnh hoặc kiểu
mẫu đặc biệt hay là sự phối hợp giữa chữ và hình vẽ được
ghi nhoặc gắn lên sản phẩm của cá nhân hoặc của một doanh
nghiệp giúp phân biệt giữa các sản phẩm với nhau, phân biệt
sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
Tên
nhãn hiệu (Brand name): là phần đọc lên được của nhãn hiệu như
từ, chữ cái, con số, ví dụ: OMO, HALIDA, IBM, …
Dấu
hiệu (Brand mark): biểu hiện bằng hình tượng, biểu trưng đặc
biệt, là bộ phận của nhãn hiệu
mà ta có thể nhận biết được, nhưng không thể đọc được,
ví dụ: hình con voi là của bia HALIDA, hình chiếc vôlăng là của hãng
ô tô Mercedes…
Dấu
hiệu hàng hóa (Trade mark): gồm 2 phần trên, nhưng được đăng ký
độc quyền, bảo vệ quyền riêng của người bán trong việc sử
dụng tên nhãn hiệu hoặc biểu tượng..
Ngoài
nhãn hiệu hàng hóa ra, bất cứ một tổ chức kinh tế, một quốc
gia nào muốn tham gia vào thị
trường thương mại quốc tế đều phải có mã số, mã vạch.
Mã
số hàng hóa là một dãy các con số được ghi ở dưới mã vạch
dùng để phân định sản phẩm hàng hóa. Mỗi dãy số như vậy
sẽ đặc trưng cho một loại hàng hóa của cơ sở sản xuất và
của quốc gia sản xuất loại hàng hóa đó. Mã số sẽ tạo
thuận lợi cho quản lý trong quá trình vận chuyển, lưu kho, mua, bán.
Bao giờ mã số và mã vạch được in trên bao bì thì sản phẩm đó
mới được coi là đủ tiêu chuẩn để nhập khẩu vào một nước
nào đó.
Mã
vạch là một dãy các vạch đen trắng dùng để thể hiện mã số
dưới dạng ký hiệu mà máy quét có thể đọc được, để lưu vào
bộ nhớ của hệ thống máy tính tính hay máy tính tiền một cách
nhanh chóng và chính xác.
4.2 Tầm quan trọng của việc dán nhãn
- Đối
với khách hàng: phân biệt để lựa chọn, tìm hàng chất lượng
-
Đối với người bán: kiểm soát được thị trường của mình (cơ
cấu hàng)
- Đối với nhà SX:
tăng danh tiếng, chống lại hàng giả kém
chất lượng
4.3 Căn cứ để lựa chọn tên nhãn hiệu
-
Nêu lên được đặc tính, lợi ích, công dụng, tính năng
hoạt động.
-
Theo thuộc tính nổi bật của SP, âm thanh đặc trưng của
sản phẩm
-
Dễ đọc, dễ nhớ, dễ phát âm
-
Đặc biệt, khác lạ, ấn tượng, dí dỏm
-
Hợp pháp, có khả năng được đăng ký và bảo vệ của pháp
luật
4.4 Sản phẩm và thương hiệu
Thương
hiệu của sản phẩm là nhân tố quyết định để khách hàng
quyết định mua hàng. Một thương hiệu tốt tượng trưng cho một
doanh nghiệp hạng nhất, một sản phẩm thượng hạng. Việc định
vị thương hiệu trở thành chủ đề chính trong chiến lược sản
phẩm của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể kinh doanh thương
hiệu, chuyển nhượng thương hiệu, xuất khẩu thương hiệu (ví
dụ: Cà phê Trung nguyên, AQ Silk…). Điều các doanh nghiệp cần lưu
ý: “Sản
phẩm là thứ sản xuất ở nhà máy, còn thương hiệu là cái
mà khách hàng mua về. Sản phẩm có thể bị đối thủ cạnh tranh
làm nhái; thương hiệu thì độc nhất vô nhị. Sản phẩm thì
nhanh chóng lỗi thời, còn một thương hiệu thành công sẽ tồn
tại vĩnh viễn”.
1.1 Đối với khách hàng :
là
cơ sở để quyết định mua sản phẩm này hay sản phẩm khác, giá
cả là đòn bẩy kích thích tiêu dùng.
1.2 Đối với doanh nghiệp: giá
cả là vũ khí cạnh tranh trên
thị trường, quyết định doanh
số và lợi nhuận; gián tiếp thể hiện chất lượng sản phẩm và
ảnh hưởng đến chương trình marketing chung.
1.3
Tầm vĩ mô: giá cả là
người chỉ đạo hệ thống kinh tế, có
ảnh hưởng đến sự phân phối các yếu tố sản xuất;
lạm phát, lãi suất ngân hàng
Các
yếu tố ảnh hưởng đến giá cả có thể chia thành hai nhóm:
yếu tố kiểm soát được (chủ quan), yếu tố không kiểm soát
được (khách quan)
Yếu
tố chủ quan:
-
Chi phí liên quan đến sản phẩm: sản xuất, bao bì đóng gói
-
Chi phí bán hàng, phân phối
-
Chi phí yểm trợ, xúc tiến bán hàng
Yếu tố khách
quan
-
Quan hệ cung cầu trên thị trường
-
Áp lực cạnh tranh
-
Chính sách giá can thiệp của chính phủ
Các
doanh nghiệp khi định giá đều phải
hướng đến việc đạt được mục tiêu nào đó,
tùy
theo các giai đoạn trong chu kỳ sống sản phẩm, các nguồn lực
của doanh nghiệp, vị thế của doanh nghiệp, tính chất cạnh tranh
trên thị trường để đưa ra các mục tiêu định giá phù hợp.
4.1 Nhu cầu về sản phẩm của khách hàng
Một sản phẩm được ưa chuộng, hữu ích, trong tình
trạng khan hiếm thường các
doanh nghiệp có thể đẩy giá
lên cao. Khi định giá theo nhu cầu của khách hàng doanh nghiệp có
thể:
4.1.1
Khảo sát giá mong đợi
Mức
giá mà khách hàng vui lòng chi trả để đổi lấy một sản phẩm
hay dịch vụ tương xứng với chi phí họ bỏ ra, thông thường là
một khoảng biến động giá có cận trên và dưới và được xác
định bằng cách:
-
Ý kiến thăm dò trực tiếp khách hàng
-
Quan sát và so sánh với giá của sản phẩm cạnh tranh
-
Kinh nghiệm thẩm định và ý kiến đánh giá của đại lý
phân phối
-
Đưa sản phẩm đi trực tiếp thử nghiệm để đánh giá
4.1.2 Ước lượng doanh
thu ở các mức giá khác nhau
Thực
chất là tính toán hệ số co giãn cầu theo giá cả, trường hợp:
-
Cầu co giãn nhiều nên
định giá thấp
-
Co giãn ít nên định giá cao
4.2 Thị phần mục tiêu
-
Đối với những sản phẩm thông dụng áp dụng giá thấp để thâm
nhập, gia tăng thị phần
-
Đối với những sản phẩm đặc biệt, độc quyền và thị phần
hẹp, dễ chi phối: dùng giá cao (giá hớt kem) chắt lọc thị trường,
lướt qua thị trường.
4.3
Những
phản ứng cạnh tranh
Doanh
nghiệp không chủ động cạnh tranh về giá nhưng sớm muộn gì trên
thị trường cũng xảy ra do sức ép của đối thủ cạnh tranh: xu
hướng giảm giá để tiêu thụ được lượng hàng nhiều hơn,
cạnh tranh giành thị phần, lợi nhuận.
4.4 Những yếu tố ảnh
hưởng của Marketing hỗn hợp:
-
Chính sách giá của doanh nghiệp phái luôn được kết hợp
với sản phẩm: “tiền nào của nấy”
-
Phân phối: cung cấp sản phẩm ở kênh khác nhau:
giá bán khác nhau
-
Chiêu thị: nhiệm vụ và hình thức chiêu thị sẽ quyết định giá
bán
Có
nhiều phương pháp định giá, trong
phạm vi phần này chỉ nêu một số phương pháp định giá cơ
bản:
5.1
Định giá dựa vào chi phí
5.1.1 Định giá cộng thêm
vào chi phí (cost plus pricing)
G
= Z + m
Trong đó: G giá bán;
Z : chi phí (giá thành) sản phẩm;
m có thể tính theo phần trăm của chi phí
5.1.2 Định giá theo phí tổn và lợi nhuận mục tiêu
Doanh nghiệp sẽ xác định giá trên cơ sở đảm bảo tỉ
suất lợi nhuận mục tiêu trên vốn đầu tư (ROI).
Giả sử rằng nhà sản xuất sản phẩm A
đã đầu tư 1.000.000 $ vào việc kinh doanh và muốn định giá
sao cho đảm bảo kiếm được ROI bằng 20% tức là 200.000 $.
Tuy
nhiên kết quả này còn tùy thuộc vào số lượng tiêu thụ có đạt
được như mong ước là 50.000 sản phẩm không. Doanh nghiệp căn
cứ vào khối lượng hòa vốn để xác định số lượng tiêu
thụ ước tính (xem công thức tính điểm hòa vốn chương III). Tuy
nhiên, cách xác định giá này chưa căn cứ vào yếu tố cạnh
tranh và thị hiếu của khách hàng
5.2 Định
giá dựa vào nhu cầu người mua
Áp
dụng phương pháp này doanh nghiệp phải quan tâm đến thị hiếu
của khách hàng, nghiên cứu hành
vi tiêu dùng qua khảo sát ý kiến khách hàng về giá mong đợi,
kết hợp tăng
5.3
Định
giá dựa vào cạnh tranh
Bằng phương pháp này, doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận dự
kiến như một tiêu chuẩn để định giá trong việc đấu thầu để
có được những hợp đồng.
Phân
phối là toàn bộ công việc để đưa một sản phẩm/dịch vụ
từ nơi sản xuất đến tận tay người tiêu dùng có nhu cầu,
bảo đảm về thời gian, số lượng, chủng loại, kiểu dáng, màu
sắc, chất lượng… mà người
tiêu dùng mong muốn. Phân phối là cầu nối giúp nhà sản xuất
cung cấp sản phẩm cho khách hàng: đúng sản phẩm, thời điểm,
địa điểm, đúng kênh, luồng hàng. Doanh nghiệp tập trung sản
phẩm, tổ chức điều hành vận chuyển tiết kiệm chi phí, hạn
chế rủi ro thiệt hại
2.
Khái quát về kênh phân phối, hệ thống phân phối
của doanh nghiệp |
Kênh
phân phối hàng hóa là tập hợp các tổ chức có trách nhiệm đảm
bảo giúp nhà sản xuất đưa sản phẩm của họ đến tay người
tiêu dùng hay người sử dụng công nghiệp.
- Một
kênh phân phối đầy đủ bao gồm:
+
Nhà sản xuất
+
Thành viên trung gian tham gia phân phối
+
Người tiêu dùng
-
Hệ thống kênh phân phối gồm có:
+
Người cung cấp và người tiêu dùng cuối cùng
+
Hệ thống các thành viên trung gian phân phối
+
Cơ sở vật chất, phương tiện vận chuyển và tồn trữ
+
Hệ thống thông tin thị trường và các dịch vụ của hoạt động
mua bán
Các
dạng kênh phân phối thông dụng
2.1
Thiết lập hệ thống phân phối
Việc xác định mục tiêu phân phối của doanh nghiệp phải
được gắn liền với mục tiêu kinh doanh. Thiết lập hệ thống
phân phối cần căn cứ trên:
-
Khối lượng và thời gian tiêu thụ hàng hóa cần đạt
-
Lợi nhuận cho nhà sản xuất và nhà trung gian
-
Phần thị trường cần chiếm giữ
-
Chi phí của doanh nghiệp và chiết khấu cho nhà trung gian
-
Khả
năng khai thác kênh sẵn có, kênh khả thi, xây dựng kênh tối ưu.
2.1.1
Phân tích và lựa chọn kênh phân phối
2.1.1.1
Những nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn
-
Yếu tố thị trường:
+
Số khách hàng tiềm năng
+
Mức độ tập trung của thị trường
+
Qui mô đặt hàng trong từng đợt
- Đặc tính của sản phẩm:
+
Sản phẩm có giá trị lớn hay nhỏ
+
Sản phẩm lâu bền hay mau hỏng, mau lỗi thời
+
Sản phẩm cồng kềnh hay gọn nhẹ
+
Sản phẩm kỹ thuật cao hay đơn giản
-
Ảnh hưởng của nhà trung gian:
+
Khả năng cung cấp dịch vụ, phương tiện
+
Lợi ích mang lại từ họ (chia sẽ rủi ro, đương đầu cạnh
tranh)
+
Mức độ cộng tác, quan điểm hợp tác (đồng tình hay không)
- Bản thân doanh nghiệp:
+
Nguồn tài chánh
+
Kinh nghiệm quản lý
+
Mức độ kiểm soát, theo dõi và bao quát kênh phân phối
+
Khả năng cung cấp các dịch vụ sau bán hàng
2.1.1.2
Các tiêu chuẩn để lựa chọn
- Tiêu chuẩn kinh tế căn
cứ: mức tiêu thụ, chi phí, hao hụt rủi ro
- Tiêu chuẩn kiểm soát:
dễ theo dõi, kiểm tra chặt chẽ chiến lược chung
-
Tiêu chuẩn thích nghi: linh hoạt, thay đổi để thích nghi
với điều kiện mới
2.1.2
Chọn lựa nhà trung gian phân phối
Doanh
nghiệp cần thu hút các thành viên có khả năng kinh doanh tốt,
thể hiện:
-
Thâm niên, kinh nghiệm, khả năng am hiểu khách hàng
-
Nguồn vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật
-
Thành tích tăng trưởng về doanh số và lợi nhuận
-
Khả năng tổ chức kinh doanh và nghệ thuật bán hàng
-
Khả năng trả nợ
-
Danh tiếng và uy tín trong kinh doanh
-
Pháp nhân kinh doanh và mối quan hệ với công chúng
-
Mức doanh số đạt được
-
Mức độ lưu kho trung bình
-
Thời gian giao hàng cho khách
-
Cách xử lý hàng hóa thất thoát hoặc hư hỏng
-
Mức hợp tác trong các chương trình quảng cáo
-
Các dịch vụ họ phải làm cho khách hàng
2.2 Lựa chọn kênh phân phối hiệu quả
Kênh
phân phối có hiệu quả phải đảm bảo :
-
Kênh chuyển tải được đa số lượng hàng hóa
-
Có tương đối ít thành viên trung gian
-
Tiết kiệm chi phí marketing
-
Tỷ lệ thiệt hại rủi ro thấp.
1.1
Chiêu thị
: có nghĩa rộng hơn bán hàng, đó là các biện pháp nhằm đẩy
mạnh và xúc tiến :
-
Làm cho hàng hóa tiêu thụ nhanh hơn
-
Khách hàng thỏa mãn hơn
Chiêu
thị bao gồm các họat động: quảng cáo, khuyến mãi, chào hàng
trực tiếp cá nhân, tuyên truyền – quan hệ với công chúng.
1.2 Bản chất của chiêu
thị:
Họat động chiêu thị nhằm truyền nhận thông tin từ doanh
nghiệp đến người tiêu dùng, tìm các cách phù hợp để thông đạt
và thuyết phục thu hút khách hàng đến với doanh nghiệp thông qua
các họat động quảng cáo, khuyến mãi, tuyên truyền, chào hàng
trực tiếp cá nhân. Chiêu
thị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật đòi hỏi phái có
sáng tạo khéo léo nhằm đạt được mục tiêu bán hàng
với chi phí thấp nhất
Họat
động chiêu thị giúp tạo điều kiện tốt cho cung cầu gặp nhau
qua thông tin hai chiều: từ doanh nghiệp đến người tiêu dùng và
ngược lại từ người tiêu dùng đến doanh nghiệp. Trên cơ sở
xử lý thông tin về khách hàng, doanh nghiệp có các họat động
nhằm làm cho hàng hóa bán được nhanh hơn, nhiều hơn
giúp củng cố, tạo uy tín và phát triển
doanh nghiệp trên thị trường.
Trong
điều kiện cạnh tranh, thị hiếu người tiêu dùng không ngừng
thay đổi thay đổi, họat động chiêu
thị càng trở nên bức thiết và khó khăn hơn. Chiêu thị có
hiệu quả làm thay đổi vị trí và hình dạng của đường cầu
Chiêu
thị là một hình thức thông đạt các vấn đề có liên quan đến:
sản phẩm, các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Thông đạt đòi hỏi thể
hiện bốn yếu tố chính:
-
Nội dung thông đạt
-
Nguồn phát đi thông đạt
-
Kênh phân phối thông đạt
- Người nhận thông đạt
Ngoài
ra quá trình thông đạt phải có hai
yếu tố phụ:
-
Tránh thông tin bị nhiễu
-
Sự phản hồi thông tin
Sự
pha trộn trong chiêu thị là phối
hợp bốn
thành phần của chiêu thị để tạo ra thế mạnh tổng hợp
và một chương trình chiêu thị hiệu quả. Những nhân tố ảnh hưởng
đến sự pha trộn chiêu thị:
5.1
Khái niệm quảng cáo
Quảng
cáo là sử dụng không gian và thời gian để truyền tin định trước
về sản phẩm hay doanh nghiệp cho khách hàng, có thể truyền đạt
qua hình ảnh (thị giác), lời nói (thính giác). Quảng cáo là công
cụ cạnh tranh đắc lực, rất cần thiết cho sản phẩm mới gia
nhập thị trường.
5.2
Các chức năng cơ bản của quảng cáo
6.1
Bản chất và chức năng của khuyến mãi
6.3
Các hình thức khuyến mãi thông dụng
·
Quảng cáo bằng quà tặng
7.1 Bản chất và tầm
quan trọng của chào hàng cá nhân
-
Tiếp cận đúng đối tượng để thuyết phục, không lãng phí
thời gian
-
Dễ dẫn đến kết quả bán hàng thật sự (tận mắt, kích thích
tr.tiếp)
-
Nắm bắt thông tin, thái độ người tiêu dùng
7.2 Qui trình chào hàng cá
nhân
-
Tìm kiếm, xác định khách hàng mục tiêu
-
Chuẩn bị: phân công nhân sự, phương tiện, kế hoạch
tiến hành
-
Tiếp cận khách hàng: nắm bắt bắt nguyện vọng, ý kiến
khách hàng, bán hàng và dịch
vụ hỗ trợ
7.3 Các yêu cầu cơ
bản của chào hàng cá nhân
7.4 Những công cụ chào
hàng chủ yếu
Công chúng là các nhóm người có quan tâm
ảnh hưởng thực tại hay tiềm ẩn đến khả năng doanh
nghiệp đạt được những mục tiêu của mình. Doanh nghiệp cần làm
tốt công tác tuyên truyền và quan hệ để thông đạt và thu
phục khách hàng. Tuyên truyền là
các hoạt động để thông tin cho công chúng biết về những ưu điểm
của sản phẩm và doanh nghiệp, có
tính chất thuyết phục cao vì các mẫu tin thời sự mang tính khách
quan hơn đối với kh
8.2 Các mục tiêu tuyên truyền
8.3 Các công cụ tuyên truyền chủ yếu:
doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ tuyền truyền:
- Xuất bản phẩm hay các tư liệu truyền thông: báo cáo năm,
bài báo, phim tư liệu, bản tin và các tạp chí đăng tải các thông
đạt từ công ty
1.
Khái niệm, vai trò và quá trình phát triển của marketing ? Liên
hệ thực tế họat động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp Việt Nam ?
5.
Trình bày khái niệm, các tiêu chuẩn có thể lựa chọn khi
phân khúc thị trường ? Lựa chọn thị trường mục tiêu?
6.
Khái niệm sản phẩm? Chu kỳ sống sản phẩm?
Các chiến lược marketing trong từng giai đoạn của chu kỳ
sống sản phẩm ?
7.
Những hiểu biết của
anh (chị) về vai trò bao bì, nhãn hiệu sản phẩm ?
8.
Hãy nêu khái niệm về giá, mục tiêu, các phương pháp định
giá?
9.
Hãy nêu vai trò và chức năng
phân phối hàng hóa? Các kênh phân phối và lựa chọn kênh
phân phối hiệu quả ?
10.
Nêu mục tiêu của
quảng cáo, đặc điểm chủ yếu của các phương tiện quảng cáo?
Các hình thức khuyến mãi ? Các công cụ tuyên truyền ?
11.
Hãy nêu nội dung và đặc điểm của hoạt động
mở rộng quan hệ với công chúng, bán hàng trực tiếp cá nhân
?