CHƯƠNG 4
QUẢN TRỊ CHI PHÍ KINH DOANH
TRONG DOANH NGHIỆP
II.
KHÁI
NIỆM VÀ PHÂN LOẠI CHI PHÍ KINH DOANH
III. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM/DỊCH VỤ
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm
Xác định kỳ tính giá thành và phương pháp đánh giá sản phẩm
dở dang.
IV.
ĐỊNH NGHĨA VÀ VAI TRÒ NGÂN SÁCH
Nội dung chương này đề cập
đến các vấn đề sau:
-
Các khái niệm kế toán cơ bản, tầm quan trọng của công tác
kế toán đối với quản trị doanh nghiệp.
-
Khái niệm và phân loại chi phí kinh doanh.
-
Khái niệm, phương pháp
tính giá thành sản phẩm
-
Các phương pháp tính kết quả theo phương pháp quản trị
chi phí kinh doanh
- Khái niệm và tầm quan trọng của ngân sách, ứng dụng hoạch định ngân sách trong doanh nghiệp.
Bất
kỳ một doanh nghiệp nào muốn
hoạt động cũng phải có một lượng vốn nhất định để mua
sắm hoặc thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà xưởng,
kho tàng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị, mua sắm vật tư,
hàng hoá... .Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh, các
doanh doanh nghiệp phải quan tâm
đến hiệu quả sử dụng vốn của mình và mong muốn phấn đấu
sao cho một đồng vốn bỏ ra, sau một thời gian nhất định sinh
lợi được nhiều nhất. Để đạt được mục đích này, một
biện pháp không thể thiếu được là doanh nghiệp phải tổ chức
ghi chép, theo dõi tình hình sử dụng tiền vốn một cách liên
tục tại mọi thời điểm của quá trình kinh doanh và tại tất
cả các địa điểm, các bộ phận sản xuất kinh doanh có liên
quan, hay nói cách khác, phải tổ chức công tác kế toán.
Kế
toán doanh nghiệp là công việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới
hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động, chủ yếu dưới
hình thức giá trị nhằm phản ánh và kiểm tra tình hình hiện có,
tình hình biến động của các loại tài sản, tình hình và kết
quả kinh doanh, sử dụng vốn và kinh phí trong doanh nghiệp.
Mục đích cơ bản
của kế toán là phân tích và giải thích các sự kiện kinh tế phát
sinh trong doanh nghiệp bằng cách quan sát, thu thập và sử lý các
thông tin ban đầu để tạo ra thông tin mới có tính hệ thống,
tổng hợp, phản ánh được một các toàn diện tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động kế toán có
chức năng thông tin và kiểm
tra. Sử dụng các thông tin do kế toán cung cấp, các nhà quản
trị có căn cứ để nhận thức đúng đắn, khách quan, kịp thời
và có hệ thống các hoạt động sản xuất – kinh doanh, đảm
bảo lựa chọn được các quyết định hợp lý nhằm nâng cao
hiệu quả của doanh nghiệp. Kế toán không chỉ giới hạn ở
việc ghi chép tính toán thuần tuý hay cung cấp thông tin kinh tế, mà
còn thể hiện ở sự kiểm tra , kiểm soát đối với các hoạt động
sản xuất – kinh doanh, sử dụng và bảo vệ tài sản trong doanh
nghiệp, đảm bảo cho các hoạt động trong doanh nghiệp có hiệu
quả thiết thực, đúng hướng và đúng pháp luật.
Như vậy, qua khái niệm của kế toán ta thấy kế toán là
một công việc cần thiết tất yếu khách quan của bất kỳ một
đơn vị, tổ chức cơ quan nào có sử dụng vốn, kinh phí độc
lập. Kế toán không chỉ thể hiện vai trò của mình như một công
cụ quan trọng, phục vụ cho công tác quản trị tài chính trong
đơn vị kinh tế, mà còn trực tiếp tham gia vào một khâu quan
trọng của quá trình quản trị, đó là kiểm tra, giám sát. Thực
chất hoạt động quản trị doanh nghiệp là quá trình chuẩn bị và
ra các quyết định quản trị. Muốn vậy bộ máy quản trị cần
có các thông tin kinh tế bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Chất
lượng của các quyết định quản trị doanh nghiệp phụ thuộc
rất lớn vào số lượng và chất lượng của các thông tin kinh
tế mà bộ máy quản trị doanh nghiệp có, lưu trữ cũng như đưa
vào sử dụng.
Chi phí hoạt động của doanh nghiệp là toàn bộ các giá
trị của nguồn lực mà doanh nghiệp đã tiêu hao trong một thời
kỳ nhất định cho các hoạt động của doanh nghiệp trong thời
kỳ đó. tuỳ theo mục đích quản trị mà thời kỳ xem xét
sẽ thay đổi, nhưng thông lệ chung thì chi phí hoạt động
của doanh nghiệp thường được đánh giá hàng năm.
Đối với những người quản lý
thì chi phí là mối quan tâm hàng đầu, bởi vì lợi nhuận thu được
nhiều hay ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của những chi phí đã
chi ra. Do đó vấn đề được đặt ra là làm sao kiểm soát được
các khoản chi phí. Nhận diện, phân tích các hoạt động sinh ra
chi phí là điều mấu chốt để có thể quản lý chi phí, từ đó
có những quyết định đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, thông thường có hai hệ thống kế
toán được sử dụng là : kế toán
tài chính và kế toán quản
trị. Hai hệ thống này được thiết lập để đáp ứng
những nhu cầu thông tin cho các đối tượng khác nhau, nhưng có
quan hệ với nhau trong hoạt động quản trị doanh nghiệp. Cả hai
hệ thống kế toán này đều là nguồn thông tin phục vụ cho
quản trị tài chính và thực hiện các thủ tục theo chế độ quy
định. Trong mỗi thời kỳ xem xét, chi phí phát sinh tương ứng
với hoạt động của doanh nghiệp là một giá trị cụ
thể. Song có những quan điểm tiếp cận khác nhau trong việc nhận
dạng các chi phí phát sinh. Các quan điểm tiếp cận này hoàn toàn
phụ thuộc vào mục tiêu
của đối tượng tiếp cận mà
dẫn tới cách nhìn nhận chi phí không hoàn toàn giống nhau.
1.1
Kế toán tài chính:
có tính chất bắt buộc đối với các doanh nghiệp do Nhà nước
quy định với những chuẩn mực chung cho mọi doanh nghiệp. Hệ
thống này thường được thể hiện bởi hệ thống chứng từ, tài
khoản, sổ sách và báo cáo do nhà nước ban hành. Đó là lý do để
coi hệ thống kế toán tài chính là hệ thống “cứng” đối
với doanh nghiệp. Đặc điểm cơ bản của hệ thông kế toán tài
chính là chỉ ghi chép các số liệu bằng đơn
vị tiền tệ phát sinh vào trong
khoảng thời gian đã định .
Hệ
thống kế toán tài chính,với đặc điểm này, nhằm đáp ứng các
nhu cầu thông tin cho việc phân tích, đánh giá trạng thái hiện
tại của doanh nghiệp. Khi so sánh thông tin kế toán tài chính
giữa các thời kỳ từ hiện tại về trước có thể thấy được
những nét lớn trong sự phát triển của doanh nghiệp thông qua
những gì đã đạt được khi sử dụng các nguồn lực đã huy động.
Rõ
ràng, thông tin kế toán tài chính thiên về phục vụ cho nhu cầu
thông tin của các chủ thể có liên quan ở bên ngoài doanh nghiệp
(Nhà nước, ngân hàng, nhà đầu tư, nhà cung cấp...). Còn với nhà
quản trị bên trong doanh nghiệp thì thông tin kế toán tài chính
chỉ là cần chứ chưa đủ, vì đối với họ, “sẽ tiếp tục làm
như thế nào” là quan trọng hơn so với “đã làm được gì”,
họ cần phải có kế toán quản trị.
1.2 Kế toán quản trị,
khác với kế toán tài chính, hệ thống kế toán này là do doanh nghiệp xây dựng theo
mục tiêu quản trị của mình.
Như
vậy, hệ thống kế toán quản trị hình thành do nhu cầu tự nhiên
của doanh nghiệp chứ không có tính bắt buộc về mặt pháp
luật. Mặt khác, hệ thống kế toán này không hoàn toàn đồng
nhất giữa các doanh nghiệp vì
nó được thiết lập tuỳ thuộc đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý của doanh
nghiệp. Thậm chí, trong một doanh nghiệp, ở những thời kỳ khác
nhau cũng có thể có sự điều chỉnh trong hệ thống kế toán
quản trị để đảm bảo sự phù hợp với mục tiêu quản trị cũng
như đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp ở thời kỳ xem xét.
Đó là lý do để coi hệ thống kế toán quản trị là hệ thống
“mềm” đối với doanh nghiệp.
Hệ
thống kế toán quản trị ghi chép các số liệu bằng cả đơn vị tiền tệ và hiện
vật (m, kg, giờ) một cách chi
tiết theo quá trình chuyển hoá nguồn lực thành kết quả theo cấu trúc hoạt động của doanh nghiệp. Do đặc điểm
này mà hệ thống kế toán quản trị cho phép nhà quản trị trong
doanh nghiệp thấy rõ hơn mối quan hệ nhân - quả tương ứng với
quyết định đưa ra.
Cũng
như kế toán tài chính, kế
toán quản trị ghi nhận các thông tin về các hoạt động đã
diễn ra. Song , điều quan trọng là từ các thông tin đó, có thể
thiết lập các mô hình dự báo và mô phỏng về hậu quả
của các quyết định chuẩn bị đưa ra nhờ cấu trúc nhân
- quả được ghi chép rõ ràng bằng hệ thống kế toán quản
trị. Khả năng này làm cho thông tin kế toán quản trị trở nên
cần thiết cho công tác dự báo và hoạch định tài chính, một
trong các nhiệm vụ quản trị tài chính.
2.Tài sản trong doanh
nghiệp. |
2.1
Tài sản cố định (TSCĐ).
2.1.1 Định nghĩa và đặc điểm TSCĐ
Định nghĩa: Tài
sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá
trị lớn, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm
hoặc trên 1 chu kỳ kinh doanh (nếu
chu kỳ kinh doanh ³
1 năm)
Trên
thực tế, khái niệm TSCĐ bao gồm những tài sản đang sử dụng,
chưa được sử dụng hoặc không còn được sử dụng trong quá trình
sản xuất kinh doanh do chúng đang trong quá trình hoàn thành (máy móc
thiết bị đã mua nhưng chưa hoặc đang lắp đặt, nhà xưởng đang
xây dựng chưa hoàn thành...) hoặc do chúng chưa hết giá trị sử
dụng nhưng không được sử dụng. Những tài sản thuê tài chính
mà doanh nghiệp sẽ sở hữu cũng thuộc về TSCĐ.
Đặc điểm của TSCĐ :
tuổi thọ có thời gian sử dụng trên
năm, tức là TSCĐ sẽ tham gia vào nhiều niên độ kinh doanh và
giá trị của nó được chuyển dần vào gíá trị sản phẩm làm
ra thông qua khoản chi phí khấu hao. Điều này làm giá trị của
TSCĐ giảm dần hàng năm. Tuy nhiên, không phải mọi tài sản có
thời gian sử dụng trên một
năm đều được gọi là TSCĐ, thực tế có những
tài sản có tuổi thọ trên một năm nhưng vì giá trị nhỏ
nên chúng không được coi là TSCĐ mà được xếp vào tài sản lưu
động. Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính, một tài sản
được gọi là TSCĐ khi có đặc điểm như đã nêu đồng thời
phải có giá trị trên 5 triệu đồng.
2.1.2
Phân loại TSCĐ
Tài
sản cố định của doanh nghiệp
bao gồm:
=Tài sản cố định hữu hình: là
những TSCĐ có hình thái vật chất, đó là những tư liệu lao động
chủ yếu có doanh nghiệp, có giá trị lớn và thời gian sử dụng
lâu năm như: nhà xưởng, kho tàng, máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải.
=Tài sản cố định vô hình: là
những TSCĐ không có hình thái vật chất và thường liên quan đến
các khoản chi phí phải phân bổ qua nhiều niên độ kinh doanh (tương
tự như khấu hao) đó là: chi phí về đất sử dụng; chi phí thành
lập doanh nghiệp; chi phí nghiên cứu phát triển; chi phí mua hoặc
thực hiện sáng chế phát
minh, bản quyền... .
=Tài sản cố định thuê tài
chính: Là
toàn bộ các TSCĐ, thường là hữu hình mà các doanh nghiệp sẽ
sở hữu khi hết hạn thuê.
=Đầu tư tài chính dài
hạn:
Đầu tư tài chính là tiền vốn của doanh nghiệp đầu tư vào
kinh doanh ở bên ngoài hoạt động của doanh nghiệp mục đích hưởng
lãi hoặc chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp khác. Đầu tư tài chính
có thể là: cổ phiếu; trái phiếu các loại; vốn góp liên doanh;
tài sản, đất đai cho thuê ngoài; tiền vốn cho vay v.v...
= Tài
sản cố định dở dang: là các TSCĐ hữu hình hoặc vô hình đang
trong quá trình hình thành, hiện chưa sử dụng
và được
xếp vào mục chi phí xây dựng cơ bản dở dang.
Ngoài
ra, những khoản ký quỹ, ký cược dài hạn mà doanh nghiệp thực
hiện cũng được xếp vào TSCĐ .
2.1.3
Khấu hao TSCĐ:
Khấu
hao TSCĐ là một thủ tục kế toán nhằm trích một phần giá trị
của TSCĐ để chuyển vào giá trị sản phẩm làm ra trong một
thời kỳ. Phần giá trị của TSCĐ được trích ra
gọi là chi phí khấu hao. Tổng chi phí khấu hao trích ra trong
suốt thời gian sống của TSCĐ bằng
chính giá trị ban đầu (nguyên
giá) của TSCĐ. Chi phí khấu hao hàng năm của TSCĐ sẽ được đưa
vào quỹ khấu hao TSCĐ. Quỹ này là một thành phần trong tích
luỹ của doanh nghiệp và được dùng để tái đầu tư.
Do
nguyên tắc không bắt buộc của kế toán quản
trị nên trong tính khấu hao kinh doanh không có sự bắt buộc
phải thực hiện khấu hao theo một phương pháp nhất định nào đó
như kế toán tài chính.
2.1.3.1 Phương pháp khấu
hao theo dường thẳng
Nguyên
tắc: Theo phương pháp này số tiền khấu hao hàng năm đồng đều
nhau
Ví
dụ: Một hệ thống máy móc thiết bị mua 110 triệu đồng
Thời gian sử dụng:
10 năm
Giá trị phế thải
10 triệu đồng
2.1.3.2
Phương pháp tồn số giảm nhân 2:
là phương pháp khấu hao gia tốc được tính theo tỷ lệ khấu hao cố định trên giá trị thuần của TSCĐ
vào cuối năm trước.
Theo
phương pháp trên, tỷ lệ khấu hao là 10%; theo phương pháp này là
20%. Tỷ lệ này được tính trên tồn số giảm dần của giá
trị TSCĐ không trừ giá trị phế thải :
Năm
1: Mức khấu hao =
110 triệu x
20% =
22 triệu đồng
Năm 2: Mức khấu
hao = (110 -
22) x 20%
=
17,6 triệu đồng
Năm 3:
Mức khấu hao = (110 –
22 - 17,6) x 20%
=
14,1 triệu đồng.
...
2.1.3.3
Phương
pháp bách phân niên số nghịch:
Bước 1: Xác
định tổng niên số khấu hao :
N
n:
Số năm sử dụng TSCĐ
N
=
= 55
Bước
2: Tính mức khấu hao các
năm bằng cách chia các niên
số theo chiều nghịch cho
tổng niên số:
Năm thứ 1 : Mức khấu hao =
(110 -
10) = 18,2 triệu đồng
Năm thứ 2: Mức khấu hao =
=
16,4 triệu đồng
Năm thứ 3 : Mức khấu hao =
=
14,5 triệu đồng
... .
2.1.3.4 Phương pháp khấu
hao theo đơn vị sản xuất ( giờ, khối lượng ...).
Như
vậy, nếu muốn khấu hao nhanh để tránh hao mòn vô hình, các doanh
nghiệp có thể tăng giá trị
khấu hao trung bình hàng năm sau khi xác định thời gian sử dụng.
2.2
Tài sản lưu động (TSLĐ)
2.2.1
Định nghĩa và đặc điểm
Tài
sản lưu động của doanh nghiệp là tất cả những tài sản
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp , có thời gian sử dụng,
luân chuyển, thu hồi vốn trong 1 năm (nếu chu kỳ kinh doanh
£ 1 năm
) hoặc trong vòng một chu kỳ
kinh doanh, (nếu chu kỳ kinh doanh > 1 năm)
Chu
kỳ kinh doanh được hiểu là khoảng thời gian cần thiết kể từ
khi doanh nghiệp bỏ vốn vào kinh doanh dưới hình thái tiền tệ
lại thu được vốn đó dưới hình thái tiền tệ.
Tuỳ
theo lĩnh vực kinh doanh mà chu kỳ kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất, đó là khoảng thời
gian cần thiết kể từ khi doanh nghiệp
bỏ tiền mua vật tư, chế biến vật liệu đó thành sản
phẩm và bán được sản phẩm đó. Đối với doanh nghiệp thương
mại, chu kỳ kinh doanh được hiểu là khoảng thời gian kể từ
khi bỏ tiền mua hàng hoá và đem bán được hàng hoá đó.
Tài
sản lưu động thay đổi hình thái
của nó trong phạm vi một chu kỳ kinh doanh. Như vậy, giá
trị của nó sẽ được chuyển toàn bộ, một lần vào sản phẩm
làm ra. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, TSLĐ có sự thay đổi hình
thái thường xuyên theo một chu kỳ khép kín : Tiền à Nguyên
vật liệu à Bán
thành phẩm à Sản
phẩm à
Tiền (T – H – T’)
TSLĐ của doanh nghiệp có thể tồn tại dưới hình thái
tiền tệ, hiện vật (vật tư, hàng hoá), dưới dạng đầu tư
ngắn hạn và các khoản nợ phải thu ngắn hạn.
2.2.2
Các thành phần của TSLĐ.
Tài
sản lưu động
của một doanh nghiệp gồm có:
- Vốn bằng tiền:
Là tài sản biểu hiện trực tiếp dưới hình thức giá trị
(tiền đồng Việt Nam, ngân phiếu,
ngoại tệ , vàng bạc, đá quý). Phần lớn vốn bằng tiền
của doanh nghiệp được gửi ở ngân hàng, ngoài ra có một phần
tồn tại dưới dạng tiền mặt tại doanh nghiệp, dùng chi trả các
khoản thường xuyên.
-
Các
khoản phải thu: Là những khoản tiền vốn của doanh nghiệp nhưng
do quan hệ thanh toán, các đơn vị, cá nhân khác còn giữ chưa
trả cho doanh nghiệp (ví dụ: tiền hàng người mua còn chịu,
tiền tạm ứng chưa thanh toán....) .
-
Hàng
tồn kho: Là loại tài sản được dự trữ cho họat động sãnuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm bảo đảm cho họat động này được
thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn, bao gồm: nguyên
vật liệu, dụng cụ , sản phẩm dở dang tồn kho, thành phẩm.
Đối
với doanh nghiệp sản xuất, hàng tồn kho gồm nguyên liệu dự
trữ trong kho chuẩn bị sản xuất, sản phẩm dở dangtrong các giai
đoạn khác nhau của quá trình sản xuất, thnàh phẩm dự trữ
trong kho để chờ bán và cả các tài sản
tham gia vào nhiều niên độ kinh doanh nhưng có giá trị nhỏ
(công cụ, dụng cụ).
Đối
với doanh nghiệp thương mại, hàng tồn kho chỉ bao gồm hàng hóa
dự trữ trong kho nhằm đảm bảo cho khâu bán hàng thường xuyên có
đủ số lượng hàng, chủng
loại hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng.
- Đầu tư tài chính ngắn hạn: Đầu tư
tài chính là sự bỏ vốn vào kinh doanh dưới hình thức mua bán
chứng khoán, góp vốn liên doanh, cho thuê tài sản, cho vay lấy lãi,
mua bán bất động sản… . Đầu tư tài chính ngắn hạn phản ánh
giá trị các khoản tiền đầu tư có thời hạn thu hồi vốn từ
1 năm trở lại.
Như
đã nêu ở trên, tài sản của doanh nghiệp có nhiều loại, tồn
tại ở nhiều dạng cụ thể khác nhau như: nguyên vật liệu,
tiền mặt, sản phẩm dở dang, thành phẩm, các khoản tiền phải
thu, nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải v.v…
Trên góc độ quản trị tài chính, người ta quan tâm đến thời
gian thu hồi vốn đã đầu tư vào các tài sản đang dùng vào sản
xuất kinh doanh, việc chia tài sản của doanh nghiệp làm 2 loại
lớn là TSCĐ và TSLĐ để có biện pháp quản lý, sử dụng, theo dõi
sự biến động tương ứng với từng loại sao cho có hiệu quả.
Tài
sản của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau. Căn cứ vào quyền sở hữu (hoặc quyền tự chủ) về vốn,
người ta phân biệt 2 nguồn chính:
¼
Nợ phải trả: là những khoản
nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có trách nhiệm
thanh toán cho các chủ nợ. Nợ phải trả của doanh nghiệp lại
chia thành:
Ø Nợ
ngắn hạn: là những khoản nợ phải trả trong vòng 1 năm (ví dụ
như vay ngắn hạn, thuế phải nộp ngân sách, lương phải trả cho
công nhân viên…)
Ø Nợ
dài hạn: là các khoản nợ có thời hạn thanh toán trên 1 năm (ví
dụ: vay dài hạn, nhận ký quỹ, ký cược dài hạn…)
Nguồn
vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn do các chủ sở hữu đầu tư
đóng góp và bổ sung từ kết quả kinh doanh. Nguồn vốn này được
sử dụng lâu dài trong suốt thời gian hoạt động mà doanh nghiệp
không phải cam kết thanh toán cho các chủ sở hữu.
Do
yêu cầu của quản trị tài chính, cần nắm được tình hình tài
sản vừa theo thời gian sử dụng, thu hồi, vừa theo nguồn hình thành
của tài sản nên kế toán ghi chép tình hình tài sản của doanh
nghiệp đồng thời theo 2 cách thể hiện trên. Từ đó tồn tại các
phương trình sau:
Tổng
giá trị tài sản = Tổng nguồn hình thành tài sản
(1)
Tổng
giá trị tài sản = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu (2)
Nguồn
vốn chủ sở hữu = Tổng giá trị tài sản - Nợ phải trả (3)
Trong
đó (1) là phương trình tiền đề, (2) được gọi là phương trình
kế toán cơ bản, (3) được gọi là phương trình tài chính. Có
thể nói, phương trình kế toán cơ bản quyết định phương pháp
ghi chép của kế toán. Kế toán ghi chép tình hình hiện có, tình hình
biến động tài sản của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất
kinh doanh sao cho bao giờ cũng bảo đảm phương trình kế toán cơ
bản.
Quản
trị chi phí kinh
doanh là công cụ chủ yếu cung cấp các thông tin bên trong cho bộ
máy quản trị doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc ra quyết định
quản trị. Để phân biệt quản trị chi phí kinh doanh doanh nghiệp
(Kế toán quản trị) với kế
toán tài chính, Haberstockk đã định nghĩa: “ Quản trị chi phí
kinh doanh là tính toán hướng nội, nó mô tả - về nguyên tắc
được thực hiện hàng tháng - đường
vận động các nhân tố sản xuất trong quá trình kết hợp chúng
và giới hạn ở việc tính toán mọi hao phí nhằm tạo ra và
thực hiện các kết quả của doanh nghiệp, đó chính là chi phí
kinh doanh.”. Như vậy, về nguyên tắc, quản trị chi phí kinh doanh
phục vụ cho việc tập hợp và tính toán các chi phí của kết
quả được tạo ra trong kinh doanh.
Là một lĩnh vực tính toán độc lập, quản trị chi phí
kinh doanh sử dụng các khái niệm, phạm trù riêng của nó. Tuy nhiên,
kế toán tài chính và quản trị chi phí kinh doanh lại là 2 bộ
phận của cùng một lĩnh vực tính toán trong doanh nghiệp; trong đó
quản trị chi phí kinh doanh sử dụng tài liệu cơ sở của kế toán
tài chính nên việc phân biệt các khái niệm giữa chúng là hoàn
toàn cần thiết:
Thứ nhất: Khái niệm chi
phí. Trong từ điển kinh tế, người ta đã định nghĩa: “mọi
sự tiêu phí tính bằng tiền của một doanh nghiệp được gọi là
chi phí”[1]
hay còn có thể khái niệm rõ ràng hơn, chẳng hạn như: “ chi phí
là một khái niệm của kế toán, có chi phí giới hạn trong xí
nghiệp, gắn với các mục tiêu của xí nghiệp và
chi phí ngoài xí nghiệp, có cơ sở ở các hoạt động khác
hoặc các nguyên nhân khác”[2].
Như thế, chi phí là một khái niệm mang tính khái quát cao trong quá
trình phát triển của kế toán doanh nghiệp, khái niệm chi phí đã
được phát triển thành các khái niệm cụ thể là chi phí kinh
doanh và chi phí tài chính.
Thứ hai: khái niệm chi phí
kinh doanh, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, có thể định nghĩa
chi phí kinh doanh như sau:
“chi phí kinh doanh là sự tiêu phí giá trị cần thiết có tính
chất xí nghiệp về vật phẩm và dịch vụ để sản xuất ra
sản phẩm của xí nghiệp”[3]
.
Khái niệm chi phí kinh doanh chỉ ra 3 đặc trưng có tính
chất bắt buộc sau đây:
·
Chi phí kinh doanh phải là sự hao
phí vật phẩm và dịch vụ
·
Sự hao phí vật phẩm và dịch
vụ phải liên quan đến kết quả, điều này có nghĩa là không
phải mọi sự hao phí vật phẩm đều là đối tượng của tính
chi phí kinh doanh, mà chỉ những hao phí nào liên quan đến mục tiêu
tạo ra và thực hiện kết quả hoặc duy trì năng lực sản xuất
cần thiết của doanh nghiệp mới nằm trong khái niệm chi phí kinh
doanh.
·
Những hao phí vật phẩm liên
quan đến kết quả của doanh nghiệp phải được đánh giá, nghĩa
là phải được đo bằng đơn vị tiền tệ.
Thứ ba: Phân biệt chi phí
kinh doanh với các khái niệm chi ra và chi phí tài chính, vì quản
trị chi phí kinh doanh được xây dựng trên cơ sở sử dụng số
liệu của kế toán tài chính nên chi phí kinh doanh có quan hệ
chặt chẽ với hai khái niệm khác của cùng một phạm trù chi phí
là chi ra (chi trả) và chi phí tài chính.
Chi
ra là “mọi khoản
tiền đã trả của xí nghiệp”[4].
Theo khái niệm này, chi ra là sự giảm tiền mặt, tiền gửi ngân
hàng, tăng tổn thất dưới các dạng nợ, vay ngắn hạn, giảm
nợ của người khác. Chi ra là một khái niệm hoàn toàn mang bản
chất tài chính, nó mô tả hành động “phải bỏ tiền ra” dưới
mọi hình thức nhằm một mục đích nào đó.
Chi phí tài chính
bao gồm những hao phí vật phẩm theo thực tế và quy định liên
quan đến việc tạo ra kết qủa của một thời kỳ, nói cách khác
“chi phí tài chính của một thời kỳ xác định là sự chi ra
gắn với kết quả của thòi kỳ đó. Nó là sự hao phí hoặc tiêu
phí giá trị của một thời kỳ tính toán nhất định được
tập hợp ở kế toán tài chính
và có mặt trong tính lãi lỗ cuối năm.
Tính chi phí
kinh doanh theo loại là bước đầu tiên của quản trị chi phí kinh
doanh, ở bước này người ta tập hợp và phân loại các chi phí
kinh doanh đã được chi ra trong kỳ tính toán. Tính chi phí kinh
doanh theo loại trả lời câu hỏi: chi phí kinh doanh nào đã được
chi ra và được chi ra bao nhiêu ?
Tính
chi phí kinh doanh theo loại có nhiệm vụ tập hợp và phản ánh
một cách thường xuyên và rõ ràng toàn bộ chi phí kinh doanh (được
phân theo loại chi phí) đã được chi ra để sản xuất và thực
hiện các kết quả trong một thời kỳ ở doanh nghiệp. Tính chi phí
kinh doanh theo loại không phải chỉ cung cấp số liệu chi phí kinh
doanh cho các bước tính chi phí kinh doanh tiếp theo, mà bản thân nó
cũng hoàn thành các mục tiêu tính toán riêng của mình, đặc
biệt là đối với không ít các doanh nghiệp nhỏ và vừa, khi ở
đó người ta chỉ có thể tính và cung cấp thông tin về tính chi
phí kinh doanh theo loại mà thôi.
Chi
phí kinh doanh theo loại là tập hợp mọi chi phí kinh doanh có chung
một đặc tính nhất định: “một loại chi phí kinh doanh cá
biệt mô tả và tập hợp lượng hao
phí giá trị xuất hiện xác định cho một dạng yếu tố sản
xuất nhất định (cho loại dịch vụ và vật phẩm nhất định) [5]
Sự phân chia loại chi phí kinh doanh luôn phụ thuộc vào hình thức và mục tiêu của cả hệ thống tính toán của doanh nghiệp. Đương nhiên, sự phân chia này không thể không chú ý đến tính thống nhất giữa quản trị chi phí kinh doanh và kế toán tài chính.
Toàn
bộ chi phí kinh doanh của một thời kỳ được phân loại theo các
tiêu thức khác nhau.
-
Chi phí nguyên vật liệu là toàn bộ các chi phí phát sinh để mua
sắm các đối tượng lao động cần thiết cho họat động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ xem xét.
- Chi phí
nhân công là các chi phí liên quan đến nguồn lực lao động mà
doanh nghiệp sử dụng trong kỳ xem xét bao gồm lương và các
khoản kèm theo lương (thưởng, bảo hiểm…)
- Chi phí
khấu hao TSCĐ là khoản chi phí liên quan đến việc sử dụng các
TSCĐ của doanh nghiệp trong kỳ xem xét. Khoản này được khấu
trừ khỏi thu nhập của doanh nghiệp trước khi tính thuế thu
nhập, nhưng là khỏan chi phí “ảo”. Lý do là khoản này không
phải là khoản thực chi của doanh nghiệp và được xem như một
thành phần tạo ra tích lũy cho doanh nghiệp.
- Chi phí
dịch vụ mua ngoài bao gồm các khoản thnah toán cho các yếu tố
mua ngoài mà doanh nghiệp thực hiện như : chi phí nhiên liệu, năng
lượng, thuê ngoài sửa chữa, kiểm toán…
- Chi phí
bằng tiền khác bao gồm các khoản thuế, lệ phí phải nộp, chi
phí họat động tài chính, họat động bất thường…
Chi phí
kinh doanh không trùng với chi phí tài chính
bao gồm:
Ø Chi
phí khấu hao kinh doanh hay
khấu hao quản trị . Khấu hao quản trị hoàn toàn khác về bản
chất với khấu hao tài chính (như đã nêu trong phần phương pháp
khấu hao)
Ø
Tiền trả lãi vốn kinh doanh bao gồm cả tiền trả lãi cho vốn
tự có và vốn đi
vay
Ø Chi
phí rủi ro, tổn thất trong kinh doanh
Ø
Tiền thuê mượn tài sản
Ø
Tiền công của chủ doanh nghiệp nhỏ
-
Chi phí dịch vụ thuê ngoài và các khoản phải nộp.
Việc phân loại chi phí kinh doanh theo tiêu thức này làm cơ
sở cho việc theo dõi và tập
hợp các chi phí và hình thành bước tính chi phí kinh doanh theo
loại.
2.2
Theo khoản mục (công dụng kinh tế và địa điểm) bao
gồm:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm những loại
nguyên liệu, vật liệu chính tạo ra thực thể của sản phẩm:
sắt thép, gỗ, vải...được xác định thông qua phiếu xuất kho
nguyên liệu. Chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp được tính
thẳng vào chi phí sản xuất sản phẩm, ngoài ra trong quá trình
sản xuất còn phát sinh những loại nguyên liệu có tác dụng phụ
thuộc, nó kết hợp nguyên vật liệu chính để sản xuất ra sản
phẩm hoặc làm tăng chất lượng của sản phẩm, hoặc tạo ra màu
sắc, mùi vị hoặc rút ngắn chu kỳ sản xuất của sản phẩm.
- Chi phí nhân công
trực tiếp bao gồm các chi phí cho lao động trực tiếp tham gia vào
quá trình tạo ra sản phẩm như chi phí về tiền lương, các
khoản tính theo lương được tính thẳng vào sản phẩm
sản xuất ra.
- Chi phí
sản xuất chung là tất cả những khoản mục chi phí phát sinh
tại nơi sản xuất hay phân xưởng mà không phải là chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp và chi phí tiền lương trực tiếp được
xem là chi phí sản xuất chung bao gồm chi phí nguyên liệu gián
tiếp, khấu hao tài sản cố định
(TSCĐ), sửa
chữa, bảo trì, quản lý tại phân xưởng...Trên giác độ toàn
doanh nghiệp cũng phát sinh những khoản chi phí tương tự gắn
liền với quá trình quản lý và tiêu thụ, nhưng không được kể
là một phần của chi phí sản xuất chung. Chi phí sản xuất chung
(CPSXC) có ba đặc điểm sau:
²
Bao gồm nhiều khoản mục chi phí khác nhau nên chúng được nhiều
bộ phận khác nhau quản lý, và rất khó kiểm soát.
²
Có tính chất gián tiếp với từng đơn vị sản phẩm nên không
thể tính thẳng vào sản phẩm hay dịch vụ cung cấp.
²
Cơ cấu CPSXC bao gồm cả định phí, biến phí và chi phí hỗn
hợp, trong đó định phí thường chiếm tỷ trọng cao nhất.
Chi phí bán hàng
gồm lương của nhân viên bán hàng, chi phí marketing, khấu hao TSCĐ
dùng trong bán hàng (cửa hàng, phương tiện vận tải…) và các
yếu tố mua ngoài liên quan.
Chi phí quản lý
doanh nghiệp gồm lương của cán bộ, nhân viên quản lý doanh
nghiệp, khấu hao TSCĐ dùng trong quản lý (văn phòng, máy tính… )và
các yếu tố mua ngoài liên quan, v.v…
Tổng các khoản mục từ À đến Â
ứng với số sản phẩm đã hoàn thành và nhập kho (tiêu thụ)
được gọi là giá
thành sản xuất. Giá thành sản xuất của số sản phẩm đã
bán đựoc gọi là
giá vốn hàng bán. Còn các khoản mục Ã
và Ä
được gọi là chi phí thời kỳ hay chi phí giai đoạn, sự phân
biệt này liên quan dến quá trình hạch toán chi phí và xác định
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ xem xét.
2.3
Phân theo nguồn chi phí phát sinh : Chi phí ban
đầu, chi phí chuyển đổi
- Chi phí nguyên liệu
trực tiếp kết hợp với chi phí tiền lương trực tiếp được
gọi là chi phí ban đầu. Chi phí này có tác dụng phản ánh mức
chi phí đầu tiên, chủ yếu của sản phẩm, đồng thời phản ánh
mức chi phí riêng biệt, cụ thể từng đơn vị sản phẩm mà ta
nhận diện ngay trong tiến trình sản xuất, và là cơ sở lập kế
hoạch về lượng chi phí chủ yếu cần thiết nếu muốn sản
xuất sản phẩm đó.
- Chi phí tiền lương
trực tiếp kết hợp với chi phí sản xuất chung được gọi là
chi phí chuyển đổi. Chi phí này có tác dụng phản ánh mức chi phí
cần thiết để chuyển đổi nguyên liệu từ dạng thô sang dạng
thành phẩm, và là cơ sở để lập kế hoạch về lượng chi phí
cần thiết để chế biến một lượng nguyên liệu nhất định thành
thành phẩm.
2.4
Ngoài
ra , người ta có thể phân loại : chi phí kinh
doanh trực tiếp, chi phí kinh doanh
gián tiếp dựa theo hình thức
tính
chi phí vào kết quả.
Chi phí trực tiếp là chi phí
tự bản thân nó được chuyển vào một bộ phận do có mối quan
hệ thực sự chặt chẽ giữa chi phí đó và bộ phận làm phát
sinh ra nó hay nói cách
khác, chi phí trực tiếp là những chi phí phát sinh một cách riêng
biệt cho một hoạt động cụ thể của doanh nghiệp (một sản
phẩm, một dịch vụ)
:
chi phí nguyên liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp...Khi bộ phận bị mất đi thì chi phí trực tiếp không tồn
tại và ngược lại. Các chi phí này có thể tính thẳng
vào giá thành một cách trực tiếp mà không ảnh hưởng đến
việc sản xuất các sản phẩm khác.
Chi
phí gián tiếp: là chi phí có liên quan đến
việc sản xuất nhiều loại sản phẩm hoặc dịch vụ, phải qua
quá trình phân bổ mới trở thành chi phí của một bộ phận: phí
sản xuất chung. Mối quan hệ giữa một yếu tố chi phí gián
tiếp và bộ phận sử dụng nó được hình thành thông qua một
mối quan hệ trung gian khác.
Các
chi phí gián tiếp không phát sinh và mất đi cùng với sự phát
sinh và mất đi của một hoạt động sản xuất – kinh doanh cụ
thể (ví dụ: chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí quản
trị doanh nghiệp...)..
2.5
Với mục đích
chú ý đến sự thay đổi của chi phí kinh doanh trong mối liên quan
đến sự
thay đổi của sản lượng, người ta chia toàn bộ chi phí
kinh doanh thành chi
phí kinh doanh cố định (bất biến), chi phí kinh doanh biến đổi
(khả biến).
Các chi phí không thay đổi theo sản lượng sản xuất và tiêu
thụ doanh của doanh nghiệp gọi là chi phí cố định (định phí)
Các chi phí thay đổi theo sản lượng sản xuất và tiêu
thụ của doanh nghiệp gọi là chi phí biến đổi ( biến phí)
Điều cần nhớ là chi phí phát sinh trong một thời kỳ
hoạt động của doanh nghiệp là một giá trị duy nhất. Các cách
tiếp cận khác nhau sẽ cho các loại chi phí khác nhau, nhưng tổng
số các loại chi phí theo mỗi cách phân loại thì như nhau và
bằng với chi phí phát sinh trong thời kỳ.
III.GIÁ THÀNH SẢN PHẨM/DỊCH VỤ |
Chi
phí sản xuất
là toàn bộ các khoản hao phí vật chất được tính bằng tiền mà
doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất sản
phẩm, có đặc điểm là luôn vận động mang tính đa đạng và
phức tạp gắn liền với tính đa dạng, phức tạp của ngành
nghề sản xuất, qui trình sản xuất.
Giá thành sản phẩm/dịch vụ là toàn bộ những chi phí tính bằng tiền để
sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm hoặc dịch
vụ nhất định. Hay nói cách khác, giá thành sản phẩm dịch vụ
là hao phí về lao động sống và lao động vật hóa cho một đơn
vị khối lượng sản phẩm hoặc lao vụ nhất định biểu hiện
bằng tiền.
Có thể nói giá thành là một chỉ tiêu phản ánh toàn diện
chất lượng họat động của doanh nghiệp bao gồm các mặt: trình
độ công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản
trị v. v…
Chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm riêng
biệt có những mặt khác nhau:
Thứ nhất: Chi phí sản xuất luôn gắn
liền với từng thời kỳ đã phát sinh ra chúng, còn giá thành
sản phẩm lại gắn liền với một khối lượng sản phẩm, dịch
vụ đã hoàn thành.
Thứ hai: Chi
phí phát sinh trong doanh nghiệp được phân thành các yếu tố chi
phí, có cùng một nội dung kinh tế, chúng không nói rõ địa điểm
và mục đích bỏ ra chi phí. Còn những chi phí nào phát sinh nói rõ
địa điểm và mục đích bỏ ra chi phí đó thì chúng được tập
hợp lại thành các khoản mục để tính toán giá thành sản
phẩm, dịch vụ.
Thứ ba: Chi phí sản xuất trong kỳ bao
gồm cả những chi phí đã trả trước của kỳ nhưng chưa
phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ trước,
nhưng kỳ này mới phát sinh thực tế, nhưng không bao gồm chi phí
phải trả kỳ này nhưng thcj tế chưa phát sinh. Ngược lại giá thành
sản phẩm lại chỉ liên quan đến chi phí phải trả trong kỳ và
chi phí trả trước được phân bổ trong kỳ.
Thứ tư: Chi phí sản xuất trong kỳ không
chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên
quan đến cả sản phẩm còn đang dở dang cuối kỳ và sản phẩm
hỏng. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chí phí sản
xuất sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng, nhưng lại
liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước
chuyển sang.
Tuy nhiên, giữa hai khái niệm chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm có mối quan hệ rất mật thiết với nhau, vì nội dung
cơ bản của chúng đều biểu hiện những chi phí doanh nghiệp đã
bỏ ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất trong
kỳ là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, dịch vụ đã hoàn
thành. Sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất kinh doanh có
ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm/dịch vụ. Vì
vậy, quản trị giá thành phải gắn liền với quản trị chi phí
sản xuất kinh doanh.
Để phục
vụ công tác quản trị, đáp ứng các yêu cầu về công tác kế
hoạch và xây dựng giá cả sản phẩm và hạch toán kinh tế, trong
các doanh nghiệp đã hình thành các loại giá thành sản phẩm khác
nhau
3.1
Giá thành sản xuất: bao gồm :
h
Chi phí nguyên liệu trực tiếp
h
Chi phí nhân công trực tiếp
h
Chi phí sản xuất chung, tính cho những sản phẩm, công việc, lao
vụ đã hoàn thành.
Giá
thành sản xuất được sử dụng ghi sổ cho sản phẩm đã hoàn thành,
nhập kho hoặc giao cho khách hàng. Giá thành sản xuất của sản
phẩm cũng là căn cứ để tính toán giá trị hàng tồn kho, giá
vốn hàng bán và lãi gộp ở doanh nghiệp sản xuất.
3.2
Giá thành phân xưởng, giá
thành công xưởng và giá thành toàn bộ
Giá
thành phân xưởng là tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Đó cũng chính
là giá thành sản xuất.
Giá
thành công xưởng là giá thành phân xưởng cộng với chi phí
quản lý doanh nghiệp.
Giá
thành toàn bộ bao gồm giá thành công xưởng và chi phí tiêu thụ
sản phẩm.
3.3
Giá thành kế hoạch và giá thành thực tế
Giá
thành kế hoạch là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở
chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính
toán giá thành kế hoạch được doanh nghiệp tiến hành xác định
trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá
thành sản phẩm kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh
nghiệp, là căn cứ để so sánh , phân tích, đánh giá tình hình
thực hiện kế hoạch giá thành và kế hoạch hạ giá thành của
sản phẩm so sánh được.
Giá
thành thực tế là giá sản phẩm được tính trên cơ sở số
liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được
trong kỳ và sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất ra
trong kỳ. Giá thành sản phẩm thực tế chỉ có thể tính toán
được sau khi đã kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản
phẩm.
3.4 Giá
thành định mức
Giá
thành định mức là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở
các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho một đơn vị
sản phẩm. Việc tính toán giá thành định mức cũng được thực
hiện trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo ra sản
phẩm.
Hệ thống tính giá thành theo định mức là hệ thống sử dụng các định mức cho chi phí và hệ thống này sẽ cho phép chúng ta kiểm soát chi tiết các biến động.
Sử dụng các chi phí định mức sẽ cho chúng ta biết kết
quả hoạt động sẽ đạt được như thế nào trong những hoàn
cảnh nhất định. Từ đó, ta có thể xác định được những
biến động và kiểm soát được hiệu quả hoạt động thực
tế.
Giá
thành định mức là công cụ quản lý các định mức của doanh
nghiệp, là thước đo chính xác để xác định kết quả sử
dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất, giúp đánh giá
đúng đắn các giải pháp kinh tế - kỹ thuật mà doanh nghiệp đã
thực hiện trong quá trình họat động nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
Tính
giá thành theo định mức
:
-
Giúp doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh tế thực sự do đã
suy tính từ trước các loại nguyên vật liệu hoặc phương pháp
sản xuất tối ưu.
-
Giúp doanh nghiệp chỉ tập trung vào những các biến động nào vượt
quá một phạm vi nào đó
thay vì phải tập trung vào nghiên cứu tất cả các biến động, dù là nhỏ.
3.5 Giá thành đơn vị và tổng giá thành sản lượng hàng hóa.
Giá
thành đơn vị là giá thành tính cho một loại sản phẩm nhất định,
theo một đơn vị nhất định. Giá thành đơn vị sản phẩm dùng
để so sánh đối chiếu giữa giá thành của doanh nghiệp
với giá thành sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác,
hoặc đối chiếu giữa kỳ kế hoạch với kỳ báo cáo. Trên cơ
sở đó, tiến hành phân tích, tìm ra những nhân tố ảnh hưởng
đến việc hạ giá thành sản phẩm.
Tổng
giá thành sản lượng hàng hóa là toàn bộ những chi phí bỏ ra để
tiến hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm tính cho toàn bộ sản lượng
hàng hóa sản xuất kinh doanh trong kỳ. Giá thành toàn bộ sản lượng
hàng hóa cho biết toàn bộ chi phí bỏ ra trong kỳ và tỷ trọng
của từng loại chi phí, có căn cứ để phân tích, tìm ra các
biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
4.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm
Xác
định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
là xác định giới hạn về mặt phạm vi mà chi phí cần được
tập hợp để phục vụ cho việc kiểm soát chi phí và tính giá thành
sản phẩm. Tùy theo đặc điểm về tổ chức sản xuất, về quy
trình sản xuất cũng như đặc điểm sản xuất sản phẩm mà đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là:
- Loại sản phẩm
- Nhóm sản phẩm
- Đơn đặt hàng
- Giai đoạn sản xuất
- Phân xưởng sản xuất
Xác định đối tượng tính giá thành là xác định đối tượng
mà hao phí vật chất được doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất đã
được kết tinh trong đó nhằm định lượng hao phí cần được bù
đắp cũng như tính toán được kết quả kinh doanh. Tùy theo địa
điểm sản xuất sản phẩm mà đối tượng tính giá thành có
thể là:
-
Chi tiết sản phẩm
-
Bán thành phẩm
-
Sản phẩm hoàn thành
-
Đơn đặt hàng
-
Hạng mục công trình.
5.1
Đối với chi phí nguyên vât
liệu
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm tất cả chi phí
về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu được
sử dụng trực tiếp cho quá trình sản xuất sản phẩm. Nguyên
vật liệu chính sử dụng để sản xuất ra nhiều loại sản
phẩm nhưng không thể xác định trực tiếp mức tiêu hao thực
tế cho từng loại sản phẩm ( hoặc đối tượng chịu chi phí )
thì kế toán phải tiến hành phân bổ theo tiêu thức phù hợp. Các
tiêu thức có thể sử dụng :định mức tiêu hao cho từng loại
sản phẩm, hệ số phân bổ được quy định, tỉ lệ với trọng
lượng sản phẩm được sản xuất. . .
Mức phân bổ chi phí về nguyên vật liệu chính dùng cho
từng loại sản phẩm được xác định theo công thức tổng quát
sau:
Vật liệu phụ và nhiên liệu
sử dụng cũng có thể liên quan đến nhiều đối tượng
chịu chi phí và không thể xác định trực tiếp mức sử dụng
cho từng đối tượng. Để phân bổ chi phí vật liệu phụ và nhiên
liệu cho từng đối tượng cũng có thể sử dụng các tiêu thức:
định mức tiêu hao, tỷ lệ hoặc tỷ trọng vật liêu chính sử
dụng, tỷ lệ với giờ máy hoạt động. Mức phân bổ cũng tính
theo công thức tổng quát trên.
5.2
Đối với chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân
công trực tiếp bao gồm tất cả các khoản chi phí liên quan đến
bộ phận lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm như: tiền lương,
tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản trích về bảo hiểm xã
hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) tính
vào chi phí theo quy định.
Chi phí nhân công trực tiếp, chủ yếu là tiền lương công
nhân trực tiếp, được hạch toán trực tiếp vào từng đối tượng
chịu chi phí. Tuy nhiên, nếu tiền lương công nhân trực tiếp liên
quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí và không xác định
một cách trực tiếp cho từng đối tượng thì phải tiến hành phân
bổ theo những tiêu thức phù hợp. Các tiêu thức phân bổ bao
gồm : định mức tiền lương của các đối tượng , hệ số phân
bổ được quy định, số giờ hoặc ngày công tiêu chuẩn. . .Trên
cơ sở tiền lương được phân bổ sẽ tiến hành trích bảo
hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT)
theo tỷ lệ quy định để tính vào chi phí.
5.3
Đối với chi phí sản xuất chung
Chi
phí sản xuất chung được tập hợp theo từng phân xưởng sản
xuất hoặc bộ phận sản xuất kinh doanh. Việc tập hợp được
thực hiện hàng tháng và cuối mỗi tháng mà tiến hành phân bổ và
kết chuyển vào đối tượng hạch toán chi phí.
- Nếu phân xưởng chỉ sản xuất ra một loại sản phẩm
duy nhất thì toàn bộ chi phí chung phát sinh ở phân xưởng được
kết chuyển toàn bộ vào chi phí sản xuất sản phẩm.
- Nếu phân xưởng sản xuất ra hai loại sản phẩm trở lên và tổ chức theo dõi riêng chi phí sản xuất cho từng loại sản phẩm ( đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là từng loại sản phẩm ) thì chi phí sản xuất chung phải được phân bổ cho từng loại sản phẩm để kết chuyển vào chi phí sản xuất sản phẩm. Để tiến hành phân bổ, có thể sử dụng các tiêu thức: tỷ lệ tiền lương công nhân sản xuất, tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, tỷ lệ với chi phí trực tiếp (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp), tỷ lệ với số giờ chạy máy, tỷ lệ với đơn vị nhiên liệu tiêu hao . . .Để xác định mức phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí ( từng loại sản phẩm ) sử dụng công thức:
6.
Xác định kỳ tính giá thành và phương pháp đánh giá sản phẩm
dở dang. |
Kỳ tính giá thành dựa vào khả năng xác định chính xác
về số lượng cũng như việc xác định
lượng chi phí sản xuất có liên quan đến kết quả đó. Tùy theo
chu kỳ sản xuất dài hay ngắn cũng như địa điểm sản xuất
sản phẩm mà xác định kỳ tính giá thành cho phù hợp. Như vậy
kỳ tính giá thành có thể là cuối mỗi tháng, cuối mỗi năm
hoặc khi đã thực hiện hoàn thành đơn dặt hàng, hoàn thành hạn
mục công trình. . .
Đánh
giá sản phẩm dở dang là công việc phải thực hiện trước khi xác
định giá thành sản phẩm. Đánh giá sản phẩm dở dang sử dụng
các phương pháp khác nhau tùy vào loại hình sản xuất và đặc điểm
sản xuất sản phẩm. Doanh nghiệp
thường áp dụng các phương pháp
- Theo trị giá thực tế của nguyên vật liệu sử dụng
(kể cả bán thành phẩm) áp dụng cho các xí nghiệp mà trong cơ
cấu giá thành sản phẩm thì trị giá nguyên vật liệu chiếm tỷ
trọng rất lớn.
- Theo trị giá nguyên vật liệu kết hợp với các loại chi
phí chế biến khác theo mức độ hoàn thành của sản phẩm dở
dang áp dụng cho các doanh nghiệp mà trong cơ cấu giá thành sản
phẩm , ngoài trị giá nguyên vật liệu thì các loại chi phí chế
biến cũng chiếm tỷ trọng đáng kể.
- Theo chi phí định mức (kế hoạch ), dựa vào mức độ hoàn
thành và các định mức kinh tế - kỹ thuật về sử dụng các
loại chi phí áp dụng cho các xí nghiệp sản xuất hàng loạt
lớn.
7.1
Phương pháp trực tiếp:
chủ yếu áp dụng cho các doanh nghiệp có quy trình sản xuất
gỉan đơn, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
và đối tượng tính giá thành phù hợp nhau. Ngoài ra phương
pháp này còn được áp dụng cho doanh nghiệp có quy trình sản
xuất phức tạp nhưng sản xuất khối lượng lớn và ít loại
sản phẩm hoặc để tính toán giá thành của những công việc,
kết quả trong từng giai đoạn sản xuất nhất định.
7.2
Phương pháp phân bước: chủ
yếu áp dụng cho những xí nghiệp sản xuất phức tạp kiểu chế
biến liên tục, quy trình công nghệ chia ra nhiều giai đoạn ( bước)
nối tiếp nhau theo một trình tự nhất định, mỗi bước chế
biến ra một loại bán thành phẩm và bán thành phẩm của bước này
là đối tượng chế biến của bước sau.
7.3
Phương pháp đơn đặt hàng : chủ
yếu áp dụng cho những xí nghiệp sản xuất đơn chiếc hoặc
sản xuất hàng loại nhỏ, công việc sản xuất thường được
tiến hành căn cứ vào đơn đặt hàng của người mua. Đơn đặt hàng
có thể chỉ là một sản phẩm riêng biệt hoặc một số sản
phẩm cùng loại.
7.4
Phương pháp định mức: dựa vào các
định mức tiêu hao về vật tư, lao động các dự toán về chi phí
phục vụ sản xuất và quản lý, khoản chênh lệch do những thay
đổi định mức cũng như những chênh lệch trong quá trình thực
hiện so với định mức. Theo phương pháp này thì giá thành thực
tế của sản phẩm được xác định như sau:
Ngoài
ra để thích ứng với những điều kiện cụ thể của quá trình
sản xuất sản phẩm có thể sử dụng một số phương pháp như:
- Phương pháp loại
trừ
- Phương pháp hệ số
- Phương pháp tỷ lệ
- Phương pháp liên hợp
Quá trình ra quyết định của doanh nghiệp là việc lựa chọn từ nhiều phương án khác nhau, trong đó mỗi phương án được xem xét bao gồm rất nhiều thông tin của kế toán nhất là thông tin về chi phí đầu tư nhằm đạt được lợi ích kinh tế cao nhất. Các nhà quản trị thường phải đứng trước sự lựa chọn từ nhiều phương án kinh doanh khác nhau với số loại, số lượng, khoản mục chi phí và thu nhập khác nhau, nhưng chúng có một đặc điểm là đều gắn nhiều với thông tin kế toán, do đó đòi hỏi các nhà quản trị phải xem xét, cân nhắc để ra quyết định đúng đắn nhất. Để làm việc đó, nhà quản trị cần sử dụng công cụ thích hợp giúp cho họ phân biệt những thông tin thích hợp với thông tin không thích hợp trong các quyết định kinh doanh.
+
Chi phí hợp lệ và vấn đề tính giá bán tối thiểu
Giá bán tối thiểu = Chi phí
hợp lệ + Lợi nhuận kế hoạch (định mức)
Chi phí hợp lệ (chi phí chênh lệch, chi phí tăng thêm, chi phí
thất thoát, ...) Tất cả chi phí đều có thể là chi phí hợp lệ
ngoại trừ chi phí lặn (chìm) và các chi phí phát sinh trong tương
lai nhưng không có sự khác nhau giữa các phương án.
Nhận dạng các chi phí
hoặc doanh thu hợp lệ:
Để nhận dạng các chi phí
(doanh thu) hợp lệ trong tiến trình phân tích ra quyết định lựa
chọn các phương án, nhà quản trị có thể thực hiện các bước
công việc sau đây:
·
Nhận dạng tất cả các chi phí
và doanh thu có liên quan đến từng phương án
·
Loại bỏ những chi phí lặn
·
Loại bỏ những chi phí và doanh
thu bằng nhau giữa các phương án
·
Ra quyết định dựa trên những
chi phí và doanh thu còn lại
Ở đây cần ghi nhận một
điều là những thông tin thích hợp trong tình huống quyết định
này không nhất thiết thích hợp trong tình huống quyết định khác.
Nhận định này xuất phát từ quan điểm những mục đích khác
nhau cần có những thông tin khác nhau (quan điểm cơ bản của kế
toán quản trị và được vận dụng thường xuyên trong các quyết
định kinh doanh). Đối với mục đích này thì nhóm thông tin này
thích hợp, nhưng đối với mục đích khác thì lại cần những thông
tin khác.
Ví
dụ 1: DN đang nghiên cứu mua một
thiết bị sản xuất mới, để thay thế thiết bị cũ với mục
tiêu làm giảm chi phí nhân công trực tiếp. Nguyên giá của thiết
bị mới là 100 triệu, giá trị còn lại của thiết bị cũ là 20
triệu, doanh thu và chi phí hàng năm được trình bày như sau:
Bảng
1: Doanh thu – chi phí
Chỉ tiêu |
Đ.v.tính |
Thiết bị cũ hiện tại |
Thiết bị mới ước tính |
Khối
lượng sản phẩm |
chiếc |
10.000 |
10.000 |
Đơn
giá bán sản phẩm |
1000
đ |
60 |
60 |
Nguyên
vật liệu trực tiếp |
1000
đ |
20 |
20 |
Nhân
công trực tiếp |
1000
đ |
15 |
10 |
Chi
phí biến đổi chung 1 s.phẩm |
1000
đ |
5 |
5 |
Chi
phí cố định họat động năm |
1000
đ |
100.000 |
100.000 |
Chi
phí khấu hao máy móc mới |
1000
đ |
- |
10.000 |
* Chi phí chìm:
Giá trị còn lại của máy móc cũ
* Loại bỏ
khoản thu, chi như nhau: doanh thu, nguyên vật liệu trực tiếp, chi
phí biến đổi chung, chi phí cố định hoạt động hàng năm.
Sử dụng thiết bị mới:
Chi phí nhân công trực
tiếp tiết kiệm được = 10.000sp x
5000 = 50.000.000 đ, nhưng chi phí
khấu hao thiết bị mới tăng lên = - 10.000.000 đ;
chi phí doanh nghiệp tiết kiệm hàng năm do sử dụng thiết
bị mới = 40.000.000 đ. Do vậy, nên mua thiết bị mới
Trong kinh doanh, thông tin có
sẵn thường rất ít để có thể lập một báo cáo thu nhập, vì
vậy nhà quản tri phải biết cách nhận những thông tin nào là thích
hợp, không thích hợp trong điều kiện thông tin giới hạn đó để
ra quyết định. Có như vậy việc đề ra quyết định mới nhanh
chóng và đáp ứng nhu cầu kịp thời.
Tóm lại, trong nền kinh
tế thị trường, khi mà yếu tố tốc độ là một yếu tố quan
trọng đối với sự thành bại của doanh nghiệp thì việc đề ra
những quyết định kinh doanh nhanh chóng và chính xác có ảnh hưởng
rất lớn đến quá trình sinh lợi của doanh nghiệp.Phân tích dựa
trên những thông tin thích hợp, kết hợp với việc xem xét trực
tiếp báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, đó chính là
công cụ tốt nhất nhằm hướng dẫn các nhà quản trị
thực hiện chức năng quyết định có hiệu quả trong các tình
huống không thường xuyên và đặc biệt này.
+
Ứng dụng của kỹ thuật phân tích
chi phí hợp lệ
*
Quyết định nên mua ngoài hay tự sản xuất
Quyết định này thường
được áp dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất, hầu hết
sản phẩm được sản xuất từ những chi tiết rời sau đó sẽ
được lắp ráp lại tạo thành thành phẩm. Những chi tiết rời này
có thể được mua sẵn từ bên ngoài hoặc do một bộ phận của
doanh nghiệp tự sản xuất. Những chi tiết rời đó các nhà quản
trị doanh nghiệp sẽ phải đứng trước quyết định nên mua ngoài
hay tự sản xuất, quyết định nào có lợi hơn? Về cơ bản cần
xem xét trên cả hai mặt chất lượng và số lượng. Ở đây,
giả sử mặt chất lượng đã đảm bảo theo đúng yêu cầu về
kỹ thuật nên chỉ cần đi sâu nghiên cứu về mặt số lượng.
Mặt số lượng của quyết định được thể hiện qua chi phí
cần để sản xuất hoặc để mua vào loại chi tiết rời cá
biệt nào đó. Cũng như mọi quá trình phân tích đề ra quyết định,
các yếu tố phải xem xét ở đây là các chi phí chênh lệch giữa
chi phí sản xuất và chi phí mua vào.
Quá trình xem xét các
quyết định nên tự sản xuất hay mua ngoài cần phải kết hợp
với việc xem xét các cơ hội kinh doanh khác thì mới có thể đi
đến quyết định đúng đắn.
Ví
dụ 2: DN đang sản xuất phụ tùng A
với mức nhu cầu hàng năm 10.000 chi tiết, các khoản mục chi phí
tính cho 1 chi tiết (đơn vị) và tính
chung toàn bộ được cho trong bảng dưới đây:
Bảng 2:
Các khoản mục chi phí
Khoản
mục |
Đơn
vị (1000 đ) |
Tổng
số (1000 đ) |
Nguyên
liệu trực tiếp |
12 |
120.000 |
Nhân
công trực tiếp |
11 |
110.000 |
3 |
30.000 |
|
Lương
nhân viên và phục vụ phân xưởng |
7 |
70.000 |
Khấu hao TSCĐ phân xưởng |
6 |
60.000 |
Chi
phí chung phân bổ |
9 |
90.000 |
Cộng |
48 |
480.000 |
Nhà cung cấp bán phụ tùng
này với giá 42.000 đ/ đ.v, đúng theo chất lượng và số lượng yêu
cầu. Quyết định nên mua ngoài hay tự sản xuất ?
Vì số lượng thành phẩm
tiêu thụ không đổi cho nên mua ngoài hay tự sản xuất
không ảnh hưởng đến doanh thu ,
quyết định phụ thuộc chi phí.
Chi phí khấu hao TSCĐ và
chi phí chung phân bổ (60.000 + 90.000 = 150.000) là CP không thay đổi
dù sản xuất hay mua ngoài nên không thích hợp cho việc ra quyết
định.
- Chi phí tự sản xuất =
480.000 - 150.000 = 330.000 ngàn đồng
- Chi phí mua ngoài
= 42
x 10.000 =
420.000 ngàn đồng
Như vậy, doanh nghiệp tự
sản xuất sẽ tiết kiệm được 90.000 ngàn đồng
Tuy nhiên, trong trường hợp các
nguồn lực và phương tiện sử dụng để sản xuất phụ tùng này
có thể sử dụng cho các mục đích khác (sản xuất sản phẩm,
cho thuê) mang lại khoản lợi nhuận hàng năm lớn hơn 90.000 ngàn
đồng thì lúc này doanh nghiệp nên mua ngoài sẽ mang lại hiệu
quả kinh tế cao hơn.
* Quyết
định nên bán ngay hay nên tiếp tục sản xuất
Quyết định này thường
gặp ở các DN sản xuất có quy mô sản xuất khởi đầu từ một
loại nguyên liệu chung, qua giai đoạn sản xuất chế biến sẽ
tạo ra nhiều bán thành phẩm khác nhau. Các bán thành phẩm này có
thể tiêu thụ được ngay hoặc được tiếp tục sản xuất
theo những quy trình riêng cho từng loại để tạo thành
những sản phẩm khác nhau rồi đem tiêu thụ. Ví dụ : xí nghiệp
lọc dầu có thể bán ngay sản phẩm
dầu thô hoặc tiếp tục chế biến thành xăng, nhớt...rồi
mới bán; xí nghiệp súc sản, có thể bán ngay thịt heo hoặc
tiếp tục chế biến.
*
Quyết định giữ lại hay loại bỏ một bộ phận
Những quyết định về việc khi nào thì loại bỏ hay tiếp
tục kinh doanh là một trong những quyết định phức tạp nhất mà
nhà quản trị phải thực hiện, vì đó là quyết định phải
chịu tác động của nhiều nhân tố. Quyết định cuối cùng là
việc đánh giá ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Ví
dụ 3:
Tình hình kinh doanh của doanh nghiệp A được thể hiện qua bảng
số liệu ở bảng 3.
Doanh
nghiệp có nên kinh doanh hàng gia dụng nữa không ?
- Chi phí cố định trực
tiếp (CPCĐ bộ phận) là những khoản CPCĐ phát sinh ở từng bộ
phận sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: tiền lương của bộ
phận quản lý từng bộ phận, khấu hao TSCĐ sử dụng riêng từng
bộ phận, chi phí quảng cáo
từng bộ phận...
Đ.v tính:
1.000.000đ
Chỉ
tiêu |
Tổng cộng |
Hàng may mặc |
Thiết bị |
Hàng gia dụng |
Doanh
thu |
400 |
180 |
160 |
60 |
Chi
phí biến đổi |
212 |
100 |
72 |
40 |
Số
dư đảm phí |
188 |
80 |
88 |
20 |
Chi
phí cố định |
143 |
61 |
54 |
28 |
Trong
đó:CPCĐ trực tiếp |
43 |
16 |
14 |
13 |
CPCĐ gián tiếp |
100 |
45 |
40 |
15 |
Lãi/ Lỗ |
45 |
19 |
34 |
-8 |
- Chi phí cố định
gián tiếp (CPCĐ chung) là những khoản CPCĐ phát sinh chung
phục vụ cho hoạt động của toàn doanh nghiệp, được phân bổ
theo các tiêu thức thích hợp. Ví dụ trên phân bổ theo doanh thu tiêu
thụ từng ngành hàng. Các CPCĐ gián tiếp như: tiền lương của nhân
viên quản lý và hội đồng quản trị doanh nghiệp, chi phí quảng
cáo cho lợi ích toàn doanh nghiệp, chi phí khấu hao TSCĐ của văn
phòng làm việc của doanh nghiệp.
- Doanh thu sau khi trừ chi phí
biến đổi được gọi là đóng góp biên hay còn gọi là số dư đảm phí
Giả
sử doanh nghiệp ngưng kinh
doanh hàng gia dụng, kết quả kinh doanh được biểu hiện qua số
liệu bảng 4 như sau:
Đ.vị tính: 1.000.000 đ
Chỉ
tiêu |
Tổng cộng |
Hàng may mặc |
Thiết bị |
Doanh
thu |
320 |
180 |
160 |
Chi
phí biến đổi |
172 |
100 |
72 |
Số
dư đảm phí |
168 |
80 |
88 |
Chi
phí cố định |
130 |
|
|
Trong
đó:CPCĐ trực tiếp |
30 |
16 |
14 |
CPCĐ gián tiếp |
100 |
|
|
Lãi/ Lỗ |
38 |
19 |
34 |
Kết quả lãi của doanh
nghiệp chỉ còn là 38 triệu đồng, như vậy một khi chưa có
phương án kinh doanh nào hay hơn việc loại bỏ nhóm hàng gia
dụng thì vẫn nên tiếp tục kinh doanh mặt hàng này, nếu không
doanh nghiệp sẽ bị mất phần lãi do mặt hàng này tạo ra là 7
triệu, để bù đắp vào định phí chung.
Việc xem xét một quyết định
có nên loại bỏ một bộ phận kinh doanh thường có nhiều phương
án khác nữa. Giả sử doanh nghiệp có thể tận dụng tài nguyên
của hàng gia dụng, nếu ngưng kinh doanh để cho thuê, thì số
tiền cho thuê là một khoản thu, hoặc có thể thay thế để kinh
doanh mặt hàng khác có lợi nhuận cao hơn.
Ví
dụ 4:Giả sử doanh nghiệp thay hàng giày
dép cho hàng gia dụng và đã dự kiến các khoản thu và chi như
sau:
Bảng 4: Doanh thu – chi phí
Chỉ
tiêu |
Tổng cộng |
Hàng may mặc |
Thiết bị |
Hàng giày dép |
Doanh
thu |
430 |
180 |
160 |
90 |
Chi
phí biến đổi |
222 |
100 |
72 |
50 |
Số
dư đảm phí |
208 |
80 |
88 |
40 |
Chi
phí cố định |
153 |
61 |
54 |
38 |
Trong
đó:CPCĐ trực tiếp |
47 |
16 |
14 |
17 |
CPCĐ gián tiếp |
106 |
45 |
40 |
21 |
Lãi/
Lỗ |
55 |
19 |
34 |
2 |
Ở
tầm vĩ mô, mỗi quốc gia đều có ngân sách nhà nước, hàng năm
Bộ trưởng Bộ tài chính trình Quốc hội xem xét Ngân sách nhà nước.
Mục tiêu của ngân sách này thể hiện một phần trong chính sách
điều hành đất nước của Chính phủ. Ở tầm vi mô, mỗi doanh
nghiệp lập ngân sách để theo dõi và điều hành các hoạt động
kinh doanh.
Trong
các doanh nghiệp, người ta có thể dùng từ kế hoạch hay dự toán,
ví dụ như kế hoạch bán hàng, kế hoạch sản xuất, kế hoạch
thu chi tiền mặt... . Tuy nhiên, trong phần này chúng ta thống nhất
dùng chung một từ là ngân sách (ví dụ như ngân sách bán hàng, ngân
sách sản xuất, ngân sách tiền mặt,...). Thuật ngữ này dùng để
chỉ một bản kế hoạch/ dự toán đã được lượng hoá thành
đơn vị sản phẩm và tiền cho tương lai.
Ngân
sách có thể được định nghĩa như sau:
Ngân sách là một kế hoạch hành động được lượng
hoá và được chuẩn bị cho một thời gian cụ thể
nhằm để đạt được các mục tiêu đã đề ra .
Từ định nghĩa ngân sách cần xem xét các đặc điểm:
-
Ngân sách phải được lượng hoá: điều này có nghĩa là ngân
sách phải được biểu thị bằng các con số, thực tế thường là
một số tiền
-
Ngân sách phải được
chuẩn bị từ trước: Bảng ngân sách phải được lập trước
thời gian dự định thực hiện ngân sách đó. Các số liệu trong
hoặc sau thời gian thực hiện ngân sách có thể cũng quan trọng,
nhưng không phải là một phần trong bảng ngân sách.
-
Ngân sách phải được áp dụng cho một khoảng thời gian
cụ thể. Một kế hoạch tài chính mở cho tương lai (không có điểm
kết thúc), không được coi là bảng ngân sách.
-
Ngân sách phải là một bảng kế hoạch hành động: đây là
điểm quan trọng nhất, ngân sách không phải là một bảng bao
gồm các số liệu thực tế vì nó liên quan đến những sự việc
chưa hề xảy ra. Tình hình có thể thay đổi trong khoảng thời
gian thực hiện ngân sách, có nghĩa là khi đó, ngân sách sẽ không
còn chính xác. Giống như các kế hoạch khác, ngân sách rất ít
khi dự báo hoàn toàn chính xác về tương lai. Tuy nhiên, ngay cả
trong trường hợp như vậy, nó vẫn đóng vai trò định hướng cho
những người thực hiện và vai trò này rất quan trọng.
Những
loại ngân sách : được liệt kê dưới đây là khá phổ biến
trong doanh nghiệp:
-
Ngân sách bán hàng (doanh thu)
-
Ngân sách nguồn lực
-
Ngân sách tiếp thị
-
Ngân sách đầu tư
-
Ngân sách chi phí cho các phòng ban chức năng
-
Ngân sách tiền mặt
Ngân
sách bán hàng: dự
báo lượng hàng hoá bán được trong một thời kỳ tương ứng. Ngân
sách này có thể phân ra cho từng bộ phận hoặc từng phòng ban.
Dự báo được lượng bán sẽ rất quan trọng vì trên cơ sở đó,
doanh nghiệp mới quyết định được lượng nguyên vật liệu
cần mua, số lượng lao động cần phải có và nhiều vấn đề khác.
Ngân
sách nguồn lực:
bao gồm một loạt các ngân sách
nhỏ như: ngân sách nguyên vật liệu, ngân sách sử dụng máy móc,
ngân sách chi phí lao động. Các ngân sách này dự báo chi tiết
kế hoạch sử dụng máy móc, lượng nguyên nhiên vật liệu cần
thiết, nhân công ... để đạt được mức sản lượng sản xuất
đáp ứng cho bán hàng. Ngân sách nguồn lực có tầm quan
trọng đặc biệt với doanh nghiệp sản xuất.
Ngân
sách tiếp thị: Để
đưa sản phẩm đến khách hàng, các doanh nghiệp cần phải tiến
hành các hoạt động tiếp thị . Chi phí cho các hoạt động tiếp
thị dự kiến của doanh
nghiệp trong một thời kỳ tương ứng được tập hợp lại trong
ngân sách tiếp thị.
Ngân
sách đầu tư:
Là một bảng trình bày các kế hoạch gia tăng (hay cắt giảm) máy
móc thiết bị hoặc các dạng tài sản cố định khác của doanh
nghiệp. Những kế hoạch này sẽ quyết định tiềm năng sản
xuất của doanh nghiệp..
Ngân
sách chi phí cho các phòng ban chức năng:
Cùng lúc với việc lập ngân sách chung cho cả doanh nghiệp, nhà
quản trị ở tất cả các phòng ban, bộ phận cũng phải dự trù
kinh phí hoạt động cho giai đoạn sắp tới. Dự trù chi phí này
được gọi là ngân sách chi phí cho các phòng ban chức năng.
Tất cả các ngân sách đều quan trọng mặc dù có thể lập luận rằng ngân sách tiền mặt là quan trọng nhất, bởi nếu không có tiền thì doanh nghiệp sẽ gặp rắc rối.
Ngân sách tiền
mặt:
Một bảng ngân sách tiền mặt thường đưa ra dự báo về:
·
lượng tiền mặt thu và chi trong kỳ kế hoạch
·
thời điểm thu và chi
·
số tiền mặt có đầu kỳ
Ngân
sách tiền mặt rất quan trọng đối với các doanh nghiệp nhỏ
hặc mới thành lập.
2.
Tầm quan trọng của lập ngân sách. |
-
Phối
hợp hoạt động và đề cao
tinh thần tập thể trong doanh nghiệp.
Quá
trình hoạch định và kiểm soát ngân sách có nghĩa là nhà quản
trị ở mọi cấp độ và ở các bộ phận khác nhau có dịp gặp
gỡ, trao đổi, thảo luận và liên kết các mục tiêu của họ
lại với nhau. Doanh nghiệp sẽ đạt được những thành công to
lớn nếu như tất cả mọi thành viên đều hợp sức lại cho
mục đích chung . Sự phối hợp này giúp cho các trưởng bộ phận
hiểu được mỗi hoạt động của đơn vị mình tác động tới
tổng thể ra sao, điều này rất cần thiết cho chính họ cũng như
cho tất cả doanh nghiệp
-
Trao
đổi thông tin
Để
có thể thực hiện một ngân sách, các thành viên cần phải biết
việc gì có thể và không thể thực hiện được đối với bộ
phận của mình. Hoạch định ngân sách sẽ thúc đẩy các cấp
quản trị trao đổi với nhau về các chính sách và mục tiêu của
doanh nghiệp. Điều này giúp củng cố tính tập thể, mọi người
làm việc vì nhau và vì doanh nghiệp.
-
Thống
nhất mục tiêu
Sử
dụng kế hoạch ngân sách đòi hỏi các nhà quản trị phải đề
ra mục tiêu phấn đấu trong tương lai nhất quán, thay vì thay đổi
mỗi ngày. Nó cũng có nghĩa là các bộ phận khác nhau trong doanh
nghiệp phải cùng nghĩ đến một mục tiêu thống nhất khi hoạch
định ngân sách.
-
Kiểm
soát thực hiện kế hoạch.
Kiểm
soát thông qua ngân sách là một dạng uỷ thác trách nhiệm. Nhìn
tổng thể mà nói, ngân sách sẽ gây ảnh hưởng đến chiến lược
của doanh nghiệp. Để phát huy hết tác dụng của ngân sách,
những kết quả thực tế phải luôn được so sánh với kết quả
dự toán. Nêu như hai kết quả này kông khớp với nhau cần phải
có sự can thiệp để đưa ra những biện pháp phù hợp. Nếu không
có kế hoạch thì không có tiêu chuẩn nào để đánh giá
những gì đang xảy ra và vì vậy, bất kỳ sự quản trị nào
cũng chỉ mang tính ngẫu nhiên và tuỳ tiện.
Ý
đồ xây dựng kế hoạch ngân sách là để có được bức tranh toàn
cảnh rõ nét hơn về những sự việc sẽ xảy ra và làm cho các
bộ phận cũng như từng cá nhân có trách nhiệm trong việc quản lý
chi tiêu trong đơn vị mình. Chính vì thế, sức mạnh của mỗi phòng
ban, mỗi bộ phận có thể được cụ thể hoá và cả tập thể
sẽ biết cách vượt qua bất cứ khó khăn nào.
-
Động
viên mọi nguồn lực.
Một
khi các thành viên ở mọi cấp độ trong doanh nghiệp tham gia càng
nhiều vào việc hoạch định và kiểm soát ngân sách , họ càng
hiểu rõ và ủng hộ các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp.
Đó chính là một sự động viên quan trọng đối với các thành
viên trong doanh nghiệp.
Tất
cả các nhân tố vừa được đề cập ở trên đều quan trọng ,
nhưng mục đích chủ yếu của ngân sách là thống nhất mục tiêu và
kiểm soát thực hiện kế hoạch. Quá trình lập kế hoạch
tốt sẽ giúp kiểm soát được doanh nghiệp
3.1 Có
một phương pháp rất đơn giản mà các doanh nghiệp thường áp
dụng, đó là phân tích điểm hòa
vốn.
Phương
pháp này xác định qui mô sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cần
thiết để có thể hòa vốn, nghĩa là không lời nhưng cũng không
lỗ.
Nếu
muốn dùng phân tích điểm hòa vốn để hoạch định lợi nhuận,
chúng ta cần tách chi phí thành chi phí cố định và chi
phí biến đổi (những thuật ngữ ngày đã được giới thiệu
phần trên).
Điểm
hòa vốn sẽ được tính theo công thức sau:
Hệ
thống tính giá thành theo định mức là một bước tiếp theo của
việc kiểm soát thực hiện ngân sách. Ở phần trên đã trình bày
tính giá thành theo định mức, ở đây chúng ta xem xét mối liên
hệ của nó với kiểm soát chi phí như thế nào
Sử
dụng các chi phí định mức sẽ cho chúng ta biết kết quả hoạt
động sẽ đạt được ra sao trong những hoàn cảnh nhất định.
Từ đó, ta có thể xác định được những biến động và kiểm
soát được hiệu quả hoạt động thực tế.
Tính
giá thành theo định mức và hoạch định ngân sách đều:
·
Hướng
tới việc xây dựng các tiêu chuẩn về hiệu quả hoạt động cho
tương lai;
·
Là những
công cụ giúp theo dõi, kiểm soát.
Tuy
nhiên, tính giá thành theo định mức và hoạch định ngân sách không
phải là một, mà có sự khác biệt quan trọng:
·
Ngân sách
liên quan tới những con số tổng, ví dụ chi phí của toàn bộ
phận.
·
Chi phí định
mức lại gắn liền với từng khoản mục cá thể, ví dụ như
từng đơn vị sản phẩm sẽ có chi phí định mức riêng
Tính
giá thành theo định mức sẽ phân quyền “xuống cho cơ sở” do
vậy nhiều người phải có trách nhiệm đạt định mức chuẩn
trong phạm vi công việc của mình. Nhiều người tham gia sẽ có cái
lợi là:
-
Nếu chi phí đơn vị được áp dụng rộng rãi và nhiều người cùng
theo dõi thực hiện thì ta có thể xác định biến động cho
nhiều khoản mục, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý.
Việc
đặt ra chuẩn sẽ tạo cho mọi người một cái đích để phấn
đấu và giúp họ luôn có ý thức tiết kiệm chi phí và qua đó giúp
họat động kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cao hơn.
1.
Khái niệm kế toán? Chức năng
của công tác kế toán?
2.
Nêu định nghĩa , đặc điểm, phân loại và khấu hao TSCĐ
trong doanh nghiệp ?
3.
Nêu định nghĩa, đặc điểm, phân loại TSLĐ trong doanh
nghiệp ?
4.
Nêu khái niệm chi phí kinh doanh, các cách phân loại chi phí
kinh doanh ?
5.
Nêu khái niệm giá thành sản phẩm/dịch vụ, mối quan hệ
giữa chi phí sản xuất và giá thành , các loại giá thành.
6.
Nêu khái niệm và phân tích vai trò ngân sách trong doanh
nghiệp ?
[1] Kuhn,M:
Từ điển kinh tế phổ thông, Hamburg 1990, cột 56
[2] . Những
lời khuyên về tính chi phí kinh doanh và kết quả ,
xuất bản lần thứ 2. Koln Bergisch Gladbach 988, trang 25.
[3] .
Chi phí kinh doanh và tính chi phí
kinh doanh. Tập 1. Wanter de Gruyter – Berlin – New York , 1973, trang
6
[4] Mellerowicz.K.
Chi phí kinh doanh. Tập 1, sách đã dẫn, trang 6
[5] Tính
chi phí kinh doanh. Hummel. S. và Mannel. W. Wiesbaden 1993, trang 392.