CHƯƠNG 5
I.
KHÁI
NIỆM VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUẢN TRỊ NHÂN SỰ.
II. MỤC
TIÊU VÀ CHỨC NĂNG CỦA QUẢN TRỊ NHÂN SỰ TRONG DOANH NGHIỆP.
III. KHÁI NIỆM Ý NGHĨA VÀ TAC DỤNG CỦA PHÂN TÍCH CÔNG VIỆC
IV. KHAI
THÁC CÁC NGUỒN KHẢ NĂNG LAO ĐỘNG
VI.
ÐÀO TẠO
HUẤN LUYỆN VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN VIÊN.
VII. ÐÁNH
GIÁ NĂNG LỰC THỰC HIỆN CÔNG VIỆC CỦA NHÂN VIÊN.
VIII.
TRẢ CÔNG LAO ĐỘNG
Qua chương này, người đọc sẽ hiểu được những vấn đề
cơ bản của quản trị nhân sự trong doanh nghiệp, cụ thể như
sau:
- Hiểu quản trị nguồn nhân sự, chức năng vai trò
của bộ phận nhân sự trong doanh nghiệp.
- Các phương pháp tuyển chọn nhân sự, bố trí và sử
dụng nhân viên trong doanh nghiệp .
- Sự cần thiết đào
tạo, huấn luyện và phát triển nghề nghiệp của
nhân viên. Giải thích những tổ chức có thể phát triển
những kỹ năng của nhân viên
- Xác định mục tiêu và tiến trình, các phương pháp đánh
giá nhân viên, những vấn đề cần quan tâm khi thực hiện đánh
giá nhân viên
-
Trả công lao động, các hình thức trả công lao động
Ngày nay người ta bắt đầu nói nhiều về quản trị nhân
sự. Khi người ta nói đến một doanh nghiệp, một giám đốc làm
ăn thua lỗ, không phải do thiếu vốn, thiếu trang thiết bị,
thiếu mặt bằng, v.v... mà người ta chỉ ngay đến người đó không
đủ năng lực điều hành công việc và thiếu sự trang bị về
kiến thức quản trị nhân sự hoặc thiếu kinh nghiệm trong chiến
lược con người.
Sự phân tích về
những thành công của nền kinh tế Nhật Bản qua nhiều năm đã
cho thấy rằng, sở dĩ đưa lại sự thần kỳ
kinh tế Nhật Bản, nguyên nhân thì có nhiều nhưng nổi bật nhất
là chiến lược con người và chính sách nhân sự của họ.
Nhưng quản trị nhân sự là gì? Hiểu thế nào về quản
trị nhân sự ?
Một vị giám đốc từng nói: Học vấn kinh doanh cơ bản
của tôi không ngoài điều: đó là về con người, tiền bạc và công
việc xem ra mới thấy rằng ngày nay muốn làm được việc vĩ đại
hay thành đạt trong kinh doanh thì cần phải biết sử dụng nhân tài,
phải biết khai thác nguồn nhân lực và phối hợp sự hoạt động
của con người trong hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Yếu tố hạn chế trong hầu hết mọi trường hợp làm ăn kém
hiệu quả chính là sự thiếu
thốn về chất lượng và sức mạnh của nhà quản trị, không
biết cách khai thác nguồn nhân sự và sự lãng phí không thể tưởng
tượng được về các nguồn nhân lực và vật
lực.
Vì thế, có thể nói quản trị nhân sự là một công việc
hết sức khó khăn và phức tạp, bởi vì nó động chạm đến
những con người cụ thể với những hoàn cảnh và nguyện vọng,
sở thích, cảm xúc và văn hóa riêng biệt. Giáo sư người Mỹ
Dinock cho rằng: "Quản trị nhân sự bao gồm toàn bộ những
biện pháp và thủ tục áp dụng cho nhân viên của một tổ chức
và giải quyết tất cả những trường hợp xảy ra có liên quan đến
một loại công việc nào đó; còn
Giáo sư Felix Migro thì cho rằng: Quản trị nhân sự là nghệ thuật chọn lựa những nhân viên
mới và sử dụng những nhân viên cũ sao cho năng suất và chất lượng
công việc của mỗi người đều đạt tới mức tối đa có thể
được.
Chức năng quản trị nguồn nhân sự liên quan đến các công
việc hoạch định nhân sự, tuyển mộ, chọn
lựa, hướng dẫn, đào tạo, huấn luyện và phát triển nghề
nghiệp của nhân viên.
Nhân sự phải gắn liền với tổ chức, với việc sắp
xếp con người vào những vị trí nhất
định trong bộ máy tổ chức để đảm bảo khả năng quản trị,
điều hành được doanh nghiệp cả hiện tại lẫn tương lai.
Quản trị nhân sự phải được xem xét theo quan điểm hệ thống.
Việc xác định nguồn nhân sự, vấn đề
tuyển chọn, sắp xếp đề bạt, đào tạo và phát triển,
đánh giá nhân viên v.v... cần phải được
đặt trên cơ sở khoa học, trong mối liên hệ tương quan
với nhiều vấn đề và chức năng khác của quản trị. Chúng được
xem xét xuất phát từ các chiến lược, kế hoạch kinh doanh, từ các
chính sách nhân sự, kế hoạch và các điều kiện của môi trường,
mối quan hệ này được biểu hiện qua sơ đồ 5.1 dưới đây:
Sơ đồ 5.1:
Phương pháp tiếp cận hệ thống trong quản trị nguồn nhân sự.
Quản trị nhân sự là một trong những chức năng cơ bản
của quá trình quản trị, bởi con người bao giờ cũng là yếu
tố quan trọng nhất của một doanh nghiệp. Do đó, việc lựa
chọn, sắp xếp con người có năng lực, phẩm chất phù hợp với
các vị trí trong bộ máy tổ chức là nhiệm vụ hàng đầu của
nhà quản trị.
Ðiều đáng lưu ý, mối quan tâm cơ bản của tất cả các
nhà quản trị là thực hiện 2 nguyên tắc mối liên hệ công
việc và con người - công việc phải phù hợp.
-
Mối quan hệ công việc: nền
tảng của quản trị có hiệu quả nguồn nhân lực yêu cầu rằng
tất cả các quyết định nhân sự phải được dựa trên cơ sở
yêu cầu nhiệm vụ: đó là
tiêu chuẩn sử dụng trong thuê mướn, đánh giá, thăng thưởng
nhân viên phải ràng buộc chặt chẽ với thực hiện công việc.
-
Cốt lõi của mối quan hệ công
việc là con người -công việc phải phù hợp: đó là quá trình
bố trí nhân viên phù hợp, đáp ứng với yêu cầu công việc.
Những nhà quản trị nhân sự giỏi là người phát hiện ra những
kỹ năng của nhân viên, hiểu biết về tính khí của nhân viên để
bố trí phù hợp với yêu cầu tiêu chuẩn công việc. Một khi con
người được sắp xếp, bố trí tương xứng với công việc sẽ
giúp cho doanh nghiệp thực hiện với hiệu quả cao và đạt được
sự thỏa mãn của nhân viên, duy trì được những nhân viên có
hiệu quả ở mức cao và hạ thấp sự vắng mặt.
Quản trị nhân sự giữ vai trò đặc biệt quan trọng và ngày
càng được các nhà quản trị quan tâm nghiên cứu và phân tích,
xem đây là một chức năng cốt lõi (Essential management function) và
quan trọng nhất của tiến trình quản trị.
Việc nghiên cứu quản trị là
hết sức cần thiết:
-
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường có
sự điều tiết của nhà nước, do đó đặc trưng nổi bật là tính
cạnh tranh. Các tổ chức nói chung và doanh nghiệp nói riêng buộc
phải cải thiện tổ chức, trong đó yếu tố con người là quyết
định. Việc tìm đúng người phù hợp để giao đúng việc, hay đúng
cương vị đang là vấn đề đáng quan tâm đối với mọi hình
thức tổ chức hiện nay.
-
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại cùng với sự phát
triển của nền kinh tế “mở” buộc các nhà quản trị phải
biết thích ứng, do đó việc tuyển chọn, sắp xếp, đào tạo, điều
động nhân sự trong bộ máy tổ chức nhằm đạt hiệu quả tốt
nhất đang được mọi giới quan tâm.
-
Nghiên cứu quản trị nhân sự giúp cho các nhà quản trị học được cách giao dịch
với người khác, biết cách đặt câu hỏi, biết lắng nghe, biết
tìm ra ngôn ngữ chung với nhân viên, biết cách nhạy cảm với nhân
viên, biết cách đánh giá nhân viên một cách tốt nhất, biết cách
lôi kéo nhân viên say mê với công việc và tránh được các sai
lầm trong việc tuyển chọn và sử dụng lao động, nâng cao chất
lượng công việc, nâng cao hiệu quả tổ chức.
Giáo
sư tiến sĩ Letter C.Thurow - nhà kinh tế và nhà quản trị học
thuộc viện công nghệ kỹ thuật Matsachuset (MIT) cho rằng: Ðiều
quyết định cho sự tồn tại và phát triển của công ty là
những con người có học vấn cao, được đào tạo tốt, có đạo
đức, có văn hóa và biết cách làm việc có hiệu quả....
Giải
thưởng Nobel về kinh tế năm 1992 được trao cho Giáo sư tiến sĩ
Gary Backer do những thành tích của ông thể hiện ở những công trình
khoa học mang tính lý thuyết về “vốn con người” (the Human
Capital). Ông cho rằng nếu đầu tư chi tiền lâu dài một cá nhân,
hay một nhóm thì có thể nâng cao được năng lực hoạt động
của đối tượng và ông đề nghị: Các công ty nên tính toán, phân
chia hợp lý cho chăm sóc sức khỏe, huấn luyện, nâng cao trình độ
người lao động để đạt năng suất cao nhất. Chi phí cho giáo
dục, đào tạo, chăm lo sức khỏe nhân viên phải được xem như
một hình thức đầu tư....
II.
MỤC TIÊU VÀ CHỨC NĂNG CỦA QUẢN TRỊ NHÂN SỰ TRONG DOANH NGHIỆP. |
Mục tiêu của quản trị nhân sự là nhằm cung cấp cho doanh
nghiệp một lực lượng lao động có hiệu qủa (effective). Ðể đạt
được mục tiêu này, các nhà quản trị phải biết cách tuyển
dụng, phát triển, đánh giá, và duy trì nhân viên của mình.
Ðể có được
nguồn nhân sự đáp ứng cho chiến lược phát triển,
quản trị nhân sự phải nhằm vào thực hiện
bốn mục tiêu cơ bản sau đây:
1.1
Mục tiêu xã hội.
Doanh nghiệp phải đáp ứng nhu cầu và thách đố của xã
hội, doanh nghiệp hoạt động vì lợi ích của xã hội chứ không
phải chỉ của riêng mình.
1.2
Mục tiêu thuộc về tổ
chức.
Quản trị nhân sự là tìm cách thích hợp để các bộ
phận cũng như toàn bộ doanh nghiệp có được những người làm
việc có hiệu quả. Quản trị nhân sự tự nó không phải là
cứu cánh; nó chỉ là một phương tiện giúp doanh nghiệp đạt
được các mục tiêu.
1.3
Mục tiêu chức năng và
nhiệm vụ.
Mỗi bộ phận phòng ban đều có chức năng nhiệm vụ riêng,
vì thế mỗi bộ phận phòng ban phải đóng góp phục vụ cho mục
tiêu chung của doanh nghiệp.
1.4
Mục tiêu cá nhân.
Nhà quản trị phải giúp nhân viên mình đạt được các
mục tiêu cá nhân của họ. Nhà quản trị phải nhận thức rằng
nếu lãng quên mục tiêu cá nhân của nhân viên, năng suất lao động
sẽ giảm, và nhân viên có thể sẽ rời bỏ doanh nghiệp .
Ðể đạt được các mục tiêu trên, cần phải có các
hoạt động quản trị nhân sự cụ thể. Bảng 5.1 dưới đây cho
ta thấy các hoạt động cụ thể.
Bảng 5.1. Mục tiêu và các
hoạt động hỗ trợ quản trị nhân sự
CÁC
MỤC TIÊU QTNS |
CÁC
HOẠT ÐỘNG HỖ TRỢ |
1.
Mục tiêu xã hội |
a.
Tuân theo pháp luật b.
Các dịch vụ theo yêu cầu c.
Mối tương quan giữa công đoàn và cấp quản trị |
2.
Mục tiêu thuộc về tổ chức |
a.
Hoạch định TNNS b.
Tuyển mộ c.
Tuyển chọn d.
Ðào tạo và phát triển e.
Ðánh giá f.
Sắp xếp g.
Các hoạt động kiểm tra |
3.
Mục tiêu chức năng nhiệm vụ |
a.
Ðánh giá b.
Sắp xếp c.
Các hoạt động kiểm tra |
4.
Mục tiêu cá nhân |
a.
Ðào tạo và phát triển b.
Ðánh giá c.
Sắp xếp d.
Lương bổng e.
Các hoạt động kiểm tra |
Chức năng của bộ phận nhân sự được biểu hiện qua sơ
đồ 5.2 sẽ cho chúng ta một cái nhìn tổng quát.
Các chức năng nhiệm vụ nêu dưới đây là các chức năng
chủ yếu của bộ phận / phòng nhân viên phổ biến trên thế
giới. Một số cơ quan tổ chức thêm chức năng nghiên cứu tài
nguyên nhân sự vào sơ đồ này. Chức năng nhiệm vụ chủ yếu
của bộ phận nhân sự bao gồm tám chức năng nêu dưới đây và
có tính bao quát trong toàn doanh nghiệp - nghĩa là giám đốc nhân
sự (Human Resource Manager) có chức năng nhiệm vụ nghiên cứu,
hoạch định tài nguyên nhân sự, tuyển dụng, đào tạo và phát
triển, quản trị lương bổng, tương quan lao động, dịch vụ và
quỹ phúc lợi, y tế và an toàn lao động trong toàn doanh nghiệp.
Giám
đốc nhân sự (Human Resource Manger) hay trưởng bộ phận nhân sự
(head of human Resource department) cũng giống như các giám đốc hay trưởng
các bộ phận khác, ngoài việc làm đầy đủ chức năng nhiệm
vụ hoạch định - tổ chức - điều hành - và kiểm soát trong
phạm vi tuyến quyền hạn của mình,
còn phải làm tròn nhiệm vụ chức năng chuyên môn của mình
là phục vụ các bộ phận khác một cách có hiệu quả liên quan
đến tám lãnh vực nêu trên, và được biểu hiện qua sơ đồ
(5.3).
Phân
tích công việc là quá trình nghiên cứu nội dung công việc nhằm
xác định điều kiện tiến hành, các nhiệm vụ, trách nhiệm,
quyền hạn khi thực hiện công việc và các phẩm chất, kỹ năng
nhân viên cần thiết phải có để
thực hiện công việc.
Phân
tích công việc là một quá trình xác định và ghi chép lại các
thông tin liên quan đến bản chất của từng công việc cụ thể
Đây
là quá trình xác định trách nhiệm, nhiệm vụ liên quan đến công
việc và các kỹ năng kiến thức cần có để thực hiện tốt công
việc. Đây cũng là quá trình xác định sự khác biệt của một công
việc này với công việc khác
Việc chuẩn bị mô tả chức trách, nhiệm vụ, trách nhiệm công việc, yêu cầu về trình độ kỹ năng công việc và các định mức hoàn thành công việc sẽ dựa trên các dữ liệu thu thập được trong quá trình phân tích công việc.
Phân tích công việc cung cấp các thông
tin về những yêu cầu, đặc điểm của công việc, như các hành
động nào cần được tiến hành thực hiện, thực hiện như thế nào và
tại sao; các loại máy máy móc trang bị, dụng cụ
nào cần thiết khi thực hiện công việc, các mối quan hệ
với cấp trên và với đồng nghiệp trong thực hiện công việc. Không
biết phân tích công việc, nhà quản trị sẽ không thể tạo ra
sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận cơ cấu trong doanh
nghiệp, không thể đánh giá chính xác yêu cầu của các công
việc, do đó không thể tuyển dụng đúng nhân viên cho công việc,
không thể đánh giá đúng năng lực thực hiện công việc của nhân
viên và do đó, không thể trả lương, kích thích họ kịp thời,
chính xác. Ðặc biệt, phân tích công việc là công cụ rất hữu
hiệu giúp các tổ chức, doanh
nghiệp mới thành lập hoặc đang cần có sự cải tổ hoặc thay
đổi về cơ cấu tổ chức, tinh giản biên chế nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Bảo đảm thành công hơn trong việc sắp xếp, thuyên
chuyển và thăng thưởng cho nhân viên.
- Loại bỏ những
bất bình đẳng về mức lương qua việc xác định rõ
nhiệm vụ và trách nhiệm của
công việc.
- Tạo kích thích lao động nhiều hơn
qua việc sắp xếp các mức thăng thưởng.
- Tiết kiệm thời gian
và sức lực qua việc tiêu chuẩn hóa công việc và từ đó giúp
nhà quản trị có cơ sở để làm kế hoạch và phân chia thời
biểu công tác.
- Giảm bớt số người cần phải thay
thế do thiếu hiểu biết về công việc hoặc trình độ của họ.
- Tạo cơ sở để
cấp quản trị và nhân viên hiểu nhau nhiều hơn.
4. Thông tin cần thu thập, nội dung, các bước phân tích công
việc |
Trong doanh nghiệp cần phải
thực hiện phân tích công việc khi:
- Doanh nghiệp mới được thành lập và chương trình phân tích
được thực hiện đầu tiên
- Có thêm một số công việc mới
- Công việc thay đổi do tác động của khoa học – kỹ
thuật
4.1
Những thông tin cần thu thập trong phân tích công việc
4.1.1 Thông
tin về các yếu tố của điều kiện làm việc như điều kiện
tổ chức hoạt động của doanh nghiệp, chế độ lương bổng,
khen thưởng, tầm quan trọng của công việc trong doanh nghiệp, các
yếu tố của điều kiện vệ sinh lao động, sự cố gắng về
thể lực, những rủi ro khó tránh, sự tiêu hao năng lượng trong
quá trình làm việc.....
4.1.2
Thông tin về các hoạt động thực tế của nhân viên tiến
hành tại nơi làm việc như các phương pháp làm việc, các mối
quan hệ trong thực hiện công việc, cách thức làm việc với khách
hàng, cách thức phối hợp hoạt động với các nhân viên khác, cách
thức thu thập xử lý các loại số liệu và cách thức làm việc
với các loại máy móc, trang bị kỹ thuật.
4.1.3 Thông
tin về những phẩm chất mà nhân viên thực hiện công việc cần
có như trình độ học vấn, kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng
thực hiện công việc, tuổi đời, ngoại hình, sở thích, sức
khỏe, quan điểm, tham vọng, các đặc điểm cá nhân cần có khi
thực hiện công việc.....
4.1.4 Thông
tin về các loại máy móc, thiết bị kỹ thuật tại nơi làm việc
như số lượng, chủng loại, quy trình kỹ thuật và các tính năng
tác dụng của các trang bị kỹ thuật, cách thức sử dụng, bảo
quản tại nơi làm việc.
4.1.5 Thông
tin về các tiêu chuẩn mẩu trong thực hiện công việc đối với
nhân viên, bao gồm cả các quy định về tiêu chuẩn hành vi và tiêu
chuẩn kết quả thực hiện công việc
4.2
Nội dung, trình tự thực hiện phân tích công việc
-
Chính sách của công ty
-
Phiếu câu hỏi
-
Phỏng vấn
-
Quan sát
-
Viết nháp bản mô tả công việc, yêu cầu, trình độ, định
mức công việc.
-
Trình cấp quản lý cho ý kiến
-
Thảo luận nhóm
- Hoàn
thiện cuối cùng
Nội
dung, trình tự thực hiện phân tích công việc thường không
giống nhau trong các doanh nghiệp, quá trình thực hiện phân tích công
việc bao gồm các bước sau đây:
Bước
1: Xác định chính sách của công ty, mục đích của phân tích
công việc, từ đó xác định các hình thức thu thập thông tin phân tích công việc hợp lý
nhất.
Chính sách của công ty
·
Nguyên
tắc, chính sách và các ưu tiên nguồn nhân lực được xác định
rõ ràng và cập nhật có thể giúp doanh nghiệp trong việc thiết
lập các thủ tục, các định mức công việc, thiết lập công
việc và đặc biệt là trong việc xác định chức trách nhiệm
vụ và yêu cầu về trình độ và kỹ năng của công việc
·
Các
chính sách và các ưu tiên nguồn nhân lực chỉ cho doanh
nghiệp thấy những điều doanh nghiệp đang quan tâm có thể
chấp nhận hay không. Nó đảm bảo rằng kết quả thực hiện công
việc của nhân viên đạt định mức tiêu chuẩn tối thiểu. Nó cũng
giúp doanh nghiệp trở nên nhất quán trong việc ra quyết định.
·
Doanh
nghiệp có thể không thường xuyên có thời gian để giải quyết
tất cả các vấn đề và các câu hỏi một cách trực tiếp. Các
chính sách viết ra là công cụ truyền thông tốt, và là cơ sở
cho các hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp.
·
Các chính
sách, quy định và các ưu tiên nguồn nhân lực của doanh nghiệp
sẽ là những la bàn định hướng cho doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp không có chúng, doanh nghiệp có thể lạc đường hay phải
đi theo đường dài hơn
Bước
2: Thông
qua bản câu hỏi thu thập các
thông tin cơ bản
Bước
3: Áp
dụng các phương pháp khác nhau để thu thập thông tin phân tích công
việc. Tùy theo yêu cầu về mức độ chính xác và chi tiết của
thông tin cần thu thập, tùy theo loại hình công việc và khả năng
về tài chính của doanh nghiệp có thể sử dụng một hoặc kết
hợp các phương pháp thu thập thông tin phân tích công việc sau đây:
phỏng vấn, bản câu hỏi và quan sát
Bước
4: Viết
nháp bản mô tả công việc, kiểm tra lại về độ chính xác và
đầy đủ thông tin qua chính các nhân viên thực hiện công việc
hoặc các vị lãnh đạo, có trách nhiệm giám sát thực hiện công
việc đó.
Bước
5: Hoàn
thiện cuối cùng
5.1
Phỏng vấn
Phỏng vấn thu thập thông tin
phân tích công việc có thể thực hiện trực tiếp với từng cá
nhân, với nhóm nhân viên thực hiện cùng một công việc hoặc
với cán bộ phụ trách nhân viên thực hiện công việc đó.
5.1.1 Ưu
điểm: Phương
pháp này được sử dụng rất hữu hiệu khi mục đích của phân
tích công việc là xây dựng tiêu chuẩn mẫu đánh giá năng lực
thực hiện công việc của nhân viên, xác định nhu cầu đào tạo
và xác định giá trị của công việc. Phỏng vấn cho phép phát
hiện ra nhiều thông tin về các hoạt động và các mối quan hệ
quan trọng trong phân tích công việc mà các phương pháp khác không
thể tìm ra. Ðồng thời phỏng vấn cũng cho ta cơ hội để giải
thích các yêu cầu và chức năng của công việc.
5.1.2 Nhược điểm: chủ yếu của phỏng vấn phân tích công việc là người bị phỏng vấn có
thể cung
cấp các thông tin sai lệch hoặc không muốn trả lời đầy đủ các
câu hỏi của người phỏng vấn. Nhân viên thường cảm thấy
rằng việc phân tích các công việc được sử dụng như màn mở
đầu để thay đổi cơ cấu tổ chức, tinh giản biên chế, nâng
cao định mức, v.v... do đó họ thường có xu hướng muốn đề
cao trách nhiệm và những khó khăn trong công việc của mình; ngược
lại, giảm thấp mức độ và tầm quan trọng trong công việc của
người khác. Thêm vào đó, phỏng vấn đòi hỏi cán bộ thu thập
thông tin phải tốn nhiều
thời gian làm việc với từng nhân viên.
Ðể nâng cao chất lượng của
phỏng vấn phân tích công việc, nên chú ý:
·
Nghiên
cứu công việc trước khi thực hiện phỏng vấn sao cho có thể
đưa ra đúng các câu hỏi cần thiết.
·
Chọn người
thực hiện công việc giỏi nhất và chọn người có khả năng mô
tả quyền hạn, trách nhiệm, cách thức thực hiện công việc
giỏi nhất.
·
Nhanh chóng
thiết lập mối quan hệ tốt đối với người bị phỏng vấn và
giải thích cho họ rõ ràng về mục đích của phóng vấn.
·
Ðặt
những câu hỏi rõ ràng và gợi ý sao cho người bị phỏng vấn dễ
trả lời
·
Cơ
cấu của các thông tin cần thu thập phải hợp lý sao cho khi
phỏng vấn không bị bỏ sót những thông tin quan trọng.
·
Kiểm
tra lại tính chính xác của các thông tin với người bị phỏng
vấn.
5.2
Bản câu hỏi
Bản câu hỏi được đánh giá
là phương pháp hữu hiệu nhất để thu thập thông tin phân tích công
việc. Bản câu hỏi liệt kê những câu hỏi chuẩn bị kỹ lưỡng
từ trước và phân phát cho nhân viên điền vào các câu trả
lời. Tổng kết các câu trả lời của nhân viên, cán bộ phân tích
sẽ có được những thông tin cơ bản, đặc trưng về các công
việc thực hiện trong doanh nghiệp. Khi cảm thấy thông tin thu
thập qua bản câu hỏi không được đầy đủ, cán bộ phân tích
nên thảo luận lại với các nhân viên thực hiện công việc. Nhìn
chung, bản câu hỏi cung cấp các thông tin nhanh hơn và dễ
thực hiện hơn so với hình thức phỏng vấn. Ðể nâng cao chất lượng
thông tin thu thập qua bản câu hỏi, cần lưu ý các vấn đề sau:
5.2.1
Cấu trúc của các câu hỏi.
Ngoài
các câu hỏi về các chức năng, nhiệm vụ chính, trong bản câu
hỏi cần thiết kế phải có những câu hỏi về các nhiệm vụ
phụ nhân viên phải thực hiện thêm tại nơi làm việc. Tuy nhiên
các câu hỏi cần xoay quanh trọng tâm các vấn đề phải nghiên
cứu và bản câu hỏi nên ngắn gọn. Thông thường, không ai thích
phải trả lời một bản câu hỏi dài. Một bản câu hỏi càng dài
thì người trả lời càng ít chú ý đến nội dung của các câu
hỏi.
5.2.2 Cách
thức đặt câu hỏi
Các
câu hỏi cần thiết kế sao cho thật đơn giản, dễ
hiểu, dễ trả lời và có thể trả lời ngắn
gọn. Ở những nơi nào có thể, nên thiết kế các câu hỏi đóng
mở, ví dụ, " Theo anh (chị), cường độ làm việc có cao quá
không?" hoặc các câu hỏi chọn lựa phương án trả lời. Ví
dụ với câu hỏi " Theo anh (chị), một nhân viên cần tối
thiểu bao nhiêu thời gian để có thể làm quen với công việc và
thực hiện công việc được tốt?", có thể sẽ có các câu
trả lời sau đây đối với công nhân viên trên dây chuyền lắp ráp
điện tử:
-
dưới 1 tháng
- 3 tháng
- 6 tháng
-
1 năm
- 3 năm hoặc hơn nữa;
5.2.3
Nơi thực hiện
Nên
để cho nhân viên thực hiện bản câu hỏi tại nơi làm việc.
Những bản câu hỏi thực hiện ở nhà thường được trả lời kém
trung thực và ít chính xác. Phân tích công việc có ý nghĩa quan
trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp; do đó, việc trả
lời bản câu hỏi nên được thực hiện trong giờ làm việc sao
cho nhân viên không cảm thấy khó chịu vì phải mất thêm thời
gian cá nhân của họ.
5.3
Quan sát tại nơi làm việc
Quan sát tại nơi làm việc cho phép các nhà phân tích chỉ
ra đầy đủ và chi tiết thời gian, mức độ thường xuyên, tính
phức tạp của các nhiệm vụ, trách nhiệm khi thực hiện các công
việc khác nhau, các thông tin về điều kiện làm việc, các máy móc,
dụng cụ, nguyên vật liệu
sử dụng trong quá trình làm việc và hiệu quả thực hiện công
việc. Phương pháp quan sát được sử dụng hữu hiệu đối với
những công việc có thể đo lường, dễ quan sát, thấy những công
việc không mang tính chất tình huống như công việc của người y
tá trực hoặc không phải tính toán suốt ngày như công việc của
các nhân viên phòng kế toán. Tuy nhiên, phương pháp quan sát có
thể cung cấp thông tin thiếu chính xác do hội chứng Hawthone ( khi
biết mình được quan sát, nhân viên có thể làm việc với phương
pháp, tốc độ, cách thức, kết quả khác với khi thực hiện công
việc trong những lúc bình thường), điều này phản ánh rõ rệt
nhất khi cán bộ phân tích vừa quan sát, vừa phỏng vấn nhân viên
thực hiện công việc.
Ðể nâng cao chất lượng thu
thập thông tin, nên áp dụng:
- Quan sát kết hợp với các phương tiện kỹ thuật
như quay phim, video, đèn chiếu hoặc đồng hồ bấm giây nhằm ghi
lại các hao phí thời gian trong thực hiện công việc.
- Quan sát theo chu kỳ của công việc hoàn thành. (lưu
ý chu kỳ của công việc là thời gian cần thiết để hoàn thành
trọn vẹn một công việc).
- Nói chuyện trực tiếp với các nhân viên thực
hiện công việc để tìm hiểu những điều chưa rõ hoặc bổ sung
những điều bỏ sót trong quá trình quan sát.
5.4
Ghi chép lại trong nhật ký
Trong một số trường hợp, nhà phân tích thu thập thông tin
bằng cách yêu cầu công nhân ghi lại, mô tả lại các hoạt động
hàng ngày trong một cuốn sổ. Nhờ phương pháp này mà công nhân
viên phóng đại tầm quan trọng của công việc trong các phương pháp
trước không còn là vấn đề không giải quyết được.
5.5
Bảng danh sách kiểm tra
Ðây là danh sách các mục liên
quan tới công việc. Thường là cá nhân người đảm nhận công
việc hoặc cấp quản trị trực tiếp của đương sự được yêu
cầu kiểm tra xem mỗi mục có áp dụng cho công việc đang cần
kiểm tra không. Danh sách kiểm tra rất hữu dụng bởi vì các cá
nhân dễ trả lời.
5.6
Phối hợp các phương pháp
Thông thường thì các nhà phân tích không dùng một phương pháp đơn thuần nữa. Họ thường phối hợp các phương pháp khác nhau. Chẳng hạn như muốn phân tích công việc của nhân viên hành chánh văn phòng, họ có thể sử dụng bảng câu hỏi, phối hợp với phỏng vấn và quan sát thêm. Khi nghiên cứu các công việc sản xuất, họ dùng phương pháp phỏng vấn phối hợp với phương pháp quan sát.
Việc
phân tích nguồn lao động nội tại của doanh nghiệp
sẽ giúp nhà quản trị kinh doanh phát
hiện được điểm mạnh, điểm yếu của mình trên cơ sở đó đề
ra các giải pháp hữu hiệu cho quá trình quản trị nhân sự.
Các bước thực hiện quá trình
phân tích nguồn lao động nội tại bao gồm:
Bước
1: Thu thập thông tin, bao gồm các thông tin sau:
- Phân tích cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý trong doanh
nghiệp: loại hình tổ chức, phân công chức năng quyền hạn
giữa các bộ phận cơ cấu trong doanh nghiệp, mối quan hệ giữa các
bộ phận nhằm phát hiện ra những bất hợp lý của cơ cấu lao
động trong một tổ chức.
-
Phân tích khả năng làm việc của nhân viên căn cứ vào hồ sơ nhân
viên. Loại thông tin này sẽ giúp nhà quản trị biết rõ cơ cấu
lao động về lứa tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề
nghiệp, kỹ năng, sở thích về nghề nghiệp, sở thích muốn được
đào tạo phát triển của người lao động.
-
Dùng bản câu hỏi, phỏng vấn để đánh giá nhân viên và các
vấn đề khác có liên quan như sự thỏa mãn đối với công
việc, môi trường văn hóa của tổ chức...
Bước
2: Ðánh giá hiệu quả hoạt động của nhân viên thông qua các
chỉ tiêu: năng suất lao động, chi phí lao động, mức độ sử
dụng quỹ thời gian, hiệu quả công suất máy móc thiết bị...
Bước
3: Tổng hợp các nguồn thông tin đã thu thập được để xác
định điểm mạnh, điểm yếu về nguồn lao động của doanh
nghiệp.
Bước
4: Ðề ra các giải pháp, cơ sở của giải pháp là so sánh nhu
cầu với khả năng thực tế của doanh nghiệp.
-
Trường hợp nhu cầu nhỏ hơn
khả năng của doanh nghiệp nhà quản trị áp dụng các biện pháp sau:
+
Hạn chế việc tuyển dụng.
+
Giảm bớt giờ lao động.
+
Giãn thợ cho nghỉ tạm thời.
+
Cho nghỉ hưu sớm, sa thải bớt lao động theo quy định của
pháp luật.
- Trường hợp khả năng phù hợp với nhu cầu nhà
quản trị cần áp dụng các biện pháp hoàn thiện như sau:
+
Thuyên chuyển nhân viên nhằm
đáp ứng nhu cầu của sản xuất.
+
Thăng chức căn cứ vào thâm
niên, thành tích và khả năng làm việc của nhân viên.
+
Giáng chức đối với những
nhân viên thiếu khả năng, không chịu học hỏi thêm, làm
biếng...
Tuy
nhiên đây là vấn đề tế nhị, phức tạp và khó khăn do đó đòi
hỏi nhà quản trị phải hết sức thận trọng khi thực hiện
quyết định.
Trường
hợp nhu cầu lớn hơn khả năng: sau khi sắp xếp lại mà doanh
nghiệp vẫn không cân đối được nguồn nhân lực, doanh nghiệp
phải tiến hành tuyển mộ và tuyển chọn qua việc khai thác
nguồn nhân lực từ bên ngoài.
2.1
Các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút lao động từ bên ngoài:
2.1.1 Các
yếu tố bên ngoài:
- Khung
cảnh kinh tế: chu kỳ kinh tế ảnh hưởng lớn đến nguồn lao động
trong giai đoạn kinh tế suy thoái hoặc kinh tế bất ổn có chiều
hướng đi xuống doanh nghiệp vẫn phải duy trì lực lượng lao động
có tay nghề và một mặt phải giảm chi phí lao động. Ngược
lại, khi kinh tế phát triển và có chiều hướng ổn định thường nhu cầu lao động tăng lên do đó sẽ ảnh
hưởng đến thị trường lao động nói chung.
- Luật
pháp: thường thường luật lao động ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình tuyển dụng lao động của doanh nghiệp, vì muốn sử
dụng lao động các doanh nghiệp bắt buộc phải trả lương cho người
lao động lớn hơn mức lương tối thiểu nhà nước quy định đảm
bảo điều kiện làm việc cho người lao động và các vấn đề
khác có liên quan đến quyền lợi người lao động.
- Văn
hóa - Xã hội: nề nếp văn hóa - xã hội ảnh hưởng lớn đến
hoạt động của con người, sự thay đổi về thái độ làm việc
và nghỉ ngơi, sự thay đổi về lối sống xã hội, sự thay đổi
về cách nhìn nhận đối với lao động nữ....Tất cả các yếu
tố đó đều ảnh hưởng đến
thị trường lao động.
-
Ðối thủ cạnh tranh: để tồn tại và phát triển nhất
thiết doanh nghiệp phải dựa vào nguồn lao động của mình, do đó
để thu hút lao động các doanh nghiệp thường có các chính sách lương
bổng sao cho khuyến khích và giữ nhân viên làm việc với mình....
Do đó, để duy trì phải biết đề ra các chính sách để thu hút
lao động một cách có hiệu quả.
- Chính
quyền và đoàn thể: chính quyền và cơ quan đoàn thể tác động
đến doanh nghiệp nhằm đảm bảo các quyền lợi của người lao
động. Do đó, ảnh hưởng của các tổ chức này đối với các
doanh nghiệp thường liên quan đến chế độ, chính sách tuyển
dụng, sa thải... lao động.
2.1.2 Các
yếu tố nội tại của doanh nghiệp:
- Chính sách cán bộ của doanh
nghiệp: những doanh nghiệp theo đuổi chính sách đề bạt nội
bộ sẽ tự làm hạn chế số lượng ứng viên từ bên ngoài, đặc
biệt là chức vụ quan trọng và thường khó có những ứng viên
tốt nhất cho công việc.
- Uy tín của doanh nghiệp: nói
lên sức hấp dẫn của doanh nghiệp, mặc dù công việc chưa được
thích thú lắm nhưng tên gọi, quy mô tổ chức, tuyển dụng...của
doanh nghiệp làm tăng thêm khả năng thu hút được những ứng viên
giỏi.
- Sức hấp dẫn của công
việc: những công việc có nhiều cơ hội thăng tiến, vị trí xã
hội tốt không đòi hỏi khắt khe đối với ứng viên... sẽ dễ
thu hút được ứng viên hơn.
- Khả năng tài chính của doanh
nghiệp: tiền lương luôn luôn là một động lực rất quan trọng
đến quá trình thúc đẩy mức độ đóng góp của người lao động
trong doanh nghiệp, Trả lương cao sẽ có khả năng thu hút được
nhiều người lao động giỏi và kích thích nhân viên làm việc hăng
say, nhiệt tình, tích cực, sáng tạo do đó mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp cao hơn. Ngược lại, nếu doanh nghiệp gặp khó khăn
về tài chính, không có khả năng trả lương cao sẽ gặp khó khăn
trong việc thu hút lao động giỏi trên thị trường.
2.2
Các hình thức thu hút lao động từ bên ngoài:
2.2.1 Thu hút lao động
từ bên ngoài thông qua quảng cáo:
2.2.1.1 Nhật báo: để tuyển nhân viên hành chính
kế toán, công nhân sản xuất bình thường.
- Ưu điểm:
* Thông tin rất nhanh.
* Chi phí rẻ
* Thông tin việc làm
được đăng ở một khu riêng biệt, người có nhu cầu dễ phát
hiện.
- Nhược điểm: * In ấn kém, không hấp dẫn.
* Chu kỳ sống ngắn.
* Phải trả tiền cho số độc giả đông hơn
nhiều so với số người có nhu cầu.
2.2.1.2 Tạp chí chuyên ngành:
áp dụng trong trường hợp cần tuyển chuyên gia chuyên ngành,
quản trị gia.
- Ưu điểm: * Chu kỳ sống
dài hơn.
*
Hình thức in hấp dẫn linh hoạt hơn
* Môi trường xuất bản, nhà xuất bản làm tăng giá trị
của thông tin.
- Nhược điểm:
* Thông tin đăng chậm hơn.
* Chi phí cao hơn.
2.2.1.3 Ðài truyền hình, phát
thanh:
- Ưu điểm:
* Thông tin được phổ biến rộng rãi.
* Hấp dẫn
- Nhược
điểm: * Chi phí rất
cao.
* Ðăng được thông tin ngắn.
2.2.1.4 Gửi thư trực tiếp:
- Ưu điểm: * Ðúng
đối tượng.
* Ðối tượng nhận tin thấy rõ tầm quan
trọng của của thông tin, thường mau chóng liên hệ với cơ quan.
* Rẻ thông tin đầy đủ
- Nhược điểm: *
Khó phát hiện ra người có nhu cầu
2.2.2
Thu hút lao động thông qua các cơ quan giới thiệu việc làm:
2.2.2.1
Các
cơ quan giới thiệu việc làm của nhà nước hay các cơ quan
giới thiệu việc làm không vì mục đích lợi nhuận như: phòng
lao động và thương binh xã hội, các tổ chức nghiệp đoàn, các
tổ chức từ thiện...
- Ưu điểm:
* Thông tin rất đầy đủ.
* Xử lý thông tin nhanh, giới thiệu đúng người đúng
việc.
- Nhược điểm:
* Thủ tục phức tạp.
2.2.2.2
Các tổ chức tư nhân.
- Ưu điểm:
* Thực hiện sơ tuyển.
* Linh hoạt, thủ tục nhanh.
- Nhược điểm: * Hạn chế về thông tin.
2.2.2.3 Tuyển
trực tiếp từ các trường lớp đào tạo chuyên môn.
Ðể tuyển
chọn được lao động có chất lượng tốt phù hợp với nhu cầu
doanh nghiệp thường chọn các trường đào tạo chuyên môn. Các
doanh nghiệp thường thực hiện thông qua các hình thức: Quà
tặng, tài trợ cho một số dự án, chương trình nghiên cứu khoa
học, thể thao... các hợp đồng này có tác dụng làm cho uy tín
của doanh nghiệp trở nên quen thuộc với sinh viên. Ðồng thời
doanh nghiệp cũng cung cấp các thông tin về nhu cầu cần tuyển nhân
viên mới, yêu cầu đòi hỏi về công việc giúp cho việc tuyển
chọn những sinh viên tốt nghiệp được kết quả tốt.
Bố trí và sử dụng lao động là sự sắp xếp, bố trí và
phân công lao động, quản trị lao động nhằm giải quyết 3 mối
quan hệ cơ bản sau:
- Người lao động và đối tượng
lao động.
- Người lao động và máy móc thiết bị.
- Người lao động với người lao động trong quá trình lao
động
2. 1 Phân công lao động.
2.1.1 Khái niệm
Phân
công lao động là sự phân công thành những phần việc khác nhau theo số lượng và
tỷ lệ nhất định phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật
của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó bố trí công nhân cho từng công
việc phù hợp với khả năng và sở trường của họ.
Phân
công lao động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố: cơ cấu
sản xuất, loại hình sản xuất, trình độ tổ chức quản lý, trình
độ kỹ thuật... Do đó, khi phân công lao động
phải chú ý các nhân tố trên để phân công lao động hợp
lý.
2. 1.2 Các hình thức phân công lao động:
2.1.2.1 Phân công lao động theo công nghệ:
là phân công loại công việc theo tính chất quy trình công nghệ, ví
dụ: ngành dệt, may cơ khí. Hình thức này cho phép xác định nhu
cầu công nhân theo nghề tạo điều kiện nâng cao trình độ chuyên
môn của công nhân.
2.1.2.2
Phân công lao động theo trình độ: là
phân công lao động theo mức
độ phức tạp của công việc, hình thức này phân công thành công
việc giản đơn và phức tạp (chia theo bậc). Hình thức này tạo
điều kiện kèm cặp giữa các loại công nhân trong quá trình sản
xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, trình độ lành nghề của công
nhân.
2.1.2.3 Phân
công lao động theo chức năng: là
phân chia công việc cho mỗi công nhân viên
của doanh nghiệp trong mối quan hệ với chức năng mà họ đảm
nhận.
Ví
dụ: Công nhân chính, công nhân phụ, công nhân viên quản lý kinh
tế, kỹ thuật, hành chánh...
Hình
thức này xác định mối quan hệ giữa lao động gián tiếp và lao
động trực tiếp và tạo điều kiện cho công nhân chính được
chuyên môn hóa cao hơn nhờ không làm công việc phụ.
2. 2 Hiệp tác lao
động.
2. 2.1 Khái niệm
Hiệp tác lao động là sự phối hợp công tác giữa những
người lao động, giữa các bộ phận làm việc thành những nhóm
để đạt được mục đích cuối cùng là chế tạo sản phẩm hoàn
chỉnh, hay hoàn thành một khối lượng công việc nào đó. Như
vậy hiệp tác lao động là kết quả của phân công lao động. Phân
công lao động càng sâu, hiệp tác lao động càng rộng, càng có
nhiều người lao động và nhiều dạng lao động thì càng cần
thiết phải có hiệp tác lao
động
2.2.2
Quá trình xây dựng nhóm làm việc được thực
hiện qua các bước sau:
Bước
1: Xác định các vấn đề mà nhóm cần giải quyết. Các thành
viên trong nhóm sẽ tham gia
vào thảo luận các vấn đề
nhóm cần giải quyết để thực hiện quá trình sản xuất sản
phẩm hay hoàn thành một khối lượng công việc nào. Ðây chính là
quá trình nhóm xác định mục tiêu hành động cho nhóm.
Bước 2:
Phân tích và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề
đang giải quyết. Trên
cơ sở thu thập các thông tin cần thiết liên quan đến việc
giải quyết đề, cả nhóm cùng tham gia và thảo luận phân tích
vấn đề, xác định rõ các yếu tố của vấn đề. Ðồng thời
phân định rõ vai trò tác động qua lại giữa các cá nhân trong nhóm,
giữa người quản lý với nhân viên, giữa những người
có trình độ, có chuyên môn khác nhau.
Bước 3: Lựa chọn giải pháp và thực hiện. Trên cơ
sở các yếu tố của vấn đề đã được xác định, cả nhóm bàn bạc thảo luận để lựa chọn ra giải pháp tốt
nhất và thực hiện giải pháp đó.
2.
2.3 Các hình thức hiệp tác
lao động.
2.2.3.1
Tổ chức sản xuất: là một tập thể làm việc kết hợp
những công nhân có cùng một hoặc nhiều nghề cùng nhau thực
hiện một công việc nhất định.
2. 2.3.1.1 Căn cứ vào nghề:
- Tổ sản xuất theo nghề:
gồm những công nhân làm một nghề giống nhau. Hình thức này
tạo điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn hóa, ứng dụng kỹ
thuật tiên tiến, thi đua, kèm cặp giúp đỡ nhau trong sản xuất.
-
Tổ sản xuất tổng hợp: gồm những công nhân có nhiều nghề khác
nhau. Tổ sản xuất tổng hợp có thể tổ chức dưới hai dạng:
+ Tổ sản xuất gồm những công
nhân chính và công nhân phụ có liên quan chặt chẽ với nhau trong
công việc sản xuất và phục vụ sản xuất. Ví dụ: công nhân
may và công nhân sửa chữa máy may, hình thức này giúp kết hợp
chặt chẽ giữa sản xuất và phục vụ sản xuất, tạo điều
kiện giảm sự lãng phí không cần thiết và nâng cao năng suất
lao động .
+ Tổ sản xuất gồm những công
nhân có nghề khác nhau cùng thực hiện một giai đoạn công nghệ
hoặc toàn bộ quá trình sản xuất. Hình thức này giúp phối hợp
chặt chẽ các bước công việc nhằm hoàn thành toàn bộ công
việc chế tạo sản phẩm, giảm thời gian sản xuất trong ngày.
2.2.3.1.2 Căn cứ vào thời gian sản xuất trong ngày.
-
Tổ sản xuất theo ca: gồm công
nhân trong một ca làm việc.
Ưu:
sinh hoạt thuận lợi, theo dõi và thống kê năng suất lao động
từng người nhanh...
Nhược: chế độ bàn giao ca phức
tạp, đối với sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài xác định
kết quả công việc khó khăn.
- Tổ sản xuất thông ca: gồm
công nhân ở các ca khác nhau cùng làm việc ở những chỗ nhất định
hoặc cùng sử dụng chung máy móc thiết bị.
Ưu: đảm bảo máy móc hoạt động
liên tục, giảm thời gian chuẩn bị và kết thúc ca.
Nhược: sinh hoạt tổ khó khăn, quản
lý phức tạp nên áp dụng đối với những sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài.
2.3.2
Tổ chức ca làm việc: là
hình thức hợp tác lao động về mặt thời gian, việc tổ chức
số ca phụ thuộc các yếu tố
sau:
- Ðặc điểm kỹ thuật sản
xuất của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải hoạt động liên tục
nếu ngừng gây thiệt hại về kinh tế như: điện, nước, luyện
kim... phải sản xuất 3 ca.
-
Ðộ dài ca làm việc ( 8 giờ): 2 hoặc 3 ca.
- Hiệu quả kinh tế của tổ
chức ca làm việc: chú ý đặc điểm sinh lý người lao động. Do
đó chú ý ít sử dụng ca đêm (tránh 3 ca).
Kết
quả của hiệp tác lao động là giúp cho toàn bộ nhân viên của
nhóm trong quá trình thực hiện công việc có điều kiện quan tâm
đến công việc nhiều hơn thông qua sự trao đổi thông tin với
nhau. Qua đó cấp trên có điều kiện lắng nghe cấp dưới khuyến
khích họ làm việc, cấp dưới ghi nhận được sự quan tâm sẽ
được khuyến khích nhiều hơn. Quá trình này giúp cho khả năng
làm việc của mọi thành viên trong nhóm tăng lên, mọi người
làm việc tốt hơn, họ ghi nhận rằng doanh nghiệp muốn họ thành
đạt nên muốn đóng góp nhiều hơn cho doanh nghiệp, nhờ vậy mà
năng suất lao động được cải thiện.
Loài
người đang sống trong một thời đại mà nhịp độ công nghệ
thay đổi diễn ra với tốc độ vũ bão - đó là
thời đại bùng nổ công nghệ, bùng nổ thông tin. Những thay đổi
này đã tác động mạnh đến kỹ thuật sản xuất, cung cách
quản lý, đến nếp sống và suy nghĩ của tất cả mọi người, và
cũng chính sự bùng nổ này mà các nhà quản trị thấy cần phải
trang bị cho nhân viên các kiến thức mới để theo kịp với sự
thay đổi. Nhu cầu đào tạo và phát triển trở nên cấp bách hơn
bao giờ hết.
Công
tác đào tạo và huấn luyện phải giúp ích cho việc thực hiện các
mục tiêu của doanh nghiệp. Nói cách khác, mục tiêu đào tạo và
huấn luyện nhân viên là nhằm thực hiện mục tiêu của doanh
nghiệp. Ðào tạo và phát triển nhân viên là một tiến trình liên
tục không bao giờ ngừng. Các bước tiến hành thông thường là:
-
Ðịnh rõ nhu cầu đào tạo và phát
triển: Nhu cầu thay đổi không chỉ đối với từng vị trí
ở các cấp quản trị hay trong cơ cấu tổ chức mà còn đối
với từng người, do kiến thức cơ bản, tiềm năng của mỗi người
là không giống nhau.
-
Ấn định mục tiêu đào tạo cụ
thể.
- Lựa chọn các phương pháp đào
tạo thích hợp.
Nhu
cầu đào tạo và phát triển quy định phương pháp đào tạo. Không
có bất kỳ chương trình hay phương pháp nào hợp với mọi nhu
cầu. Chương trình và phương pháp cần được chọn lựa trên cơ
sở chúng thỏa mãn những nhu cầu cá nhân và hoàn thành các mục
tiêu phát triển nhân sự và mục tiêu của doanh nghiệp một cách
có kết quả và hữu hiệu đến mức nào. Vấn đề quan trong sao
cho việc đào tạo phải gắn liền với thực tiễn.
Vấn
đề cốt lõi là cấp quản trị cao nhất phải tích cực ủng hộ
và tạo điều kiện cho chương trình phát triển. Sự
hỗ trợ của những người quản trị cao nhất không được
chỉ dừng ở mức ra những quyết định, chính sách mà cần chú
trọng đến đào tạo, can thiệp và tham gia tích cực của họ vào
quá trình đào tạo và phát triển.
Sau
khi đã nghiên cứu nhu cầu đào tạo và phát triển nhân sự, doanh
nghiệp phải tiếp tục nghiên cứu tiến trình đào tạo và phát
triển nhân sự. Tiến trình này được biểu hiện qua sơ đồ 5.4
dưới đây:
Những
người được chọn làm việc cho doanh nghiệp có thể đã có
những kỹ năng cần thiết, nhưng cũng có những
người có rất ít hoặc không có khả năng thích hợp. Do vậy,
doanh nghiệp thường phải đào tạo và huấn luyện những người
này.
Các
hoạt động đào tạo, huấn luyện và phát triển nhân viên rất
quan trọng đối với doanh nghiệp và cả cá nhân. Ðối với doanh
nghiệp, đào tạo, huấn luyện truyền đạt những kỹ năng và
kiến thức cần thiết để nâng cao năng suất lao động, hiệu
quả hoạt động.
Những
tiến bộ về công nghệ dẫn đến sự thay đổi về những nhu
cầu đối với nguồn nhân lực. Do đó, để khỏi bị lạc hậu
cần phải cập nhật các kỹ năng và kiến thức. Việc đào tạo,
huấn luyện nhân viên có thể được thực hiện theo 3 giai đoạn:
lúc mới đầu nhận việc, trong thời gian làm việc và để chuẩn
bị cho những công việc mới.
Nội
dung đào tạo, huấn luyện có thể liên quan đến các khía cạnh
nghiệp vụ công việc, hoặc để nâng cao trình độ nhận thức và
xử lý vấn đề.
Các
doanh nghiệp thường tổ chức nhiều hình thức đào tạo khác
nhau, một trong những hình thức đó là các khóa huấn luyện làm
quen với nghề nghiệp dành cho những nhân viên mới. Các khóa học
này cung cấp thông tin, định hướng cho những nhân viên mới
những hiểu biết và các chính sách của
doanh nghiệp.
2.1
Huấn luyện tại nơi làm
việc.
Hầu hết
mọi nhân viên đều có thể tiếp thu được kinh nghiệm nghề
nghiệp khi làm việc. Họ có thể học hỏi thông qua quan sát và
sự chỉ dẫn của cấp trên của họ. Ðể mở rộng tầm hiểu
biết, nhân viên có thể dược luân phiên làm việc giữa các bộ
phận khác nhau trong một khoảng thời gian để nhằm hiểu biết
tổng quát về các công việc có liên quan. Học bằng thực hành là
phương pháp đào tạo trực tiếp qua việc làm cụ thể dưới sự
hướng dẫn của một người có trình độ và kinh nghiệm.
2.2
Huấn luyện ngoài nơi làm
việc.
Nhân
viên có thể tạm ngưng công việc để đi học và được thực
hiện bên ngoài nơi làm việc và thực tế có rất nhiều phương
pháp để áp dụng. Các doanh nghiệp hoặc gửi người theo học ở
các trường lớp đào tạo bên ngoài doanh nghiệp, hoặc tổ chức
các lớp ngay tại doanh nghiệp. Ở các nước tiên tiến, các công
ty tổ chức các phương pháp đào tạo phức tạp và tốn kém hơn
như đào tạo ngoài hành lang (vestribule training), trong đó nhân viên
được tập làm việc, thao tác trên những máy móc, thiết bị như
trong phòng làm việc thật sự, nhưng ở trong phòng được dành riêng
để đào tạo.
Ngày
nay đã có sự thay đổi rất sâu, rộng về phương pháp được
sử dụng để truyền đạt những kỹ năng và kiến thức tùy theo
từng công việc khác nhau như thông qua các buổi thảo luận, các
cuộc trao đổi kiến thức kinh nghiệm, phương pháp hội nghị, trò
chơi kinh doanh, nghiên cứu tình huống v.v... .
1.1
Ðịnh nghĩa.
Ðánh
giá năng lực thực hiện công việc hay còn gọi là đánh giá thành
tích công tác (performance appraisal) là một hệ thống chính thức
được duyệt xét và đánh giá sự hoàn thành công tác của một cá
nhân theo định kỳ.
Qua
định nghĩa cho ta thấy đây là một hệ thống chính thức, như
vậy phải hiểu rằng nó bao gồm cả một tiến trình đánh giá
khoa học, có tính hệ thống và phải được thực hiện theo định
kỳ tùy theo tính chất công việc, quy mô kinh doanh của doanh
nghiệp.
1.2
Mục đích của đánh giá
.
Ðánh
giá năng lực thực hiện công việc của nhân viên là một hoạt
động quan trọng của quản trị nhân sự, giúp doanh nghiệp có cơ
sở để hoạch định, tuyển chọn, đào tạo và
phát triển nhân sự. Ðể đánh giá đúng năng lực thực hiện công
việc của nhân viên, nhà quản trị cần phải hiểu được mục
đích của việc đánh giá:
-
Nâng cao khả năng thực hiện công việc và cung cấp những thông
tin phản hồi cho nhân viên biết được mức độ thực hiện công
việc, từ đó có biện pháp nâng cao và hoàn thiện hiệu năng công
tác.
-
Ðánh giá năng lực thực hiện công việc giúp doanh nghiệp có
những dữ liệu cho biết khả năng thăng tiến của nhân viên.
Nhờ sự đánh giá này doanh nghiệp có thể có cơ sở để hoạch
định tài nguyên nhân sự.
-
Giúp nhân viên điều chỉnh, sửa chữa các sai lầm trong quá trình
làm việc, đồng thời làm cơ sở để khuyến khích động viên họ.
-
Ðánh giá năng lực thực hiện công việc giúp cho doanh nghiệp có
cơ sở dự báo về nhân sự trong tương lai, từ đó có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân sự.
-
Thông qua đánh giá năng lực thực hiện công việc của nhân viên,
nhà quản trị có thể điều chỉnh việc bố trí sử dụng nhân
viên cho phù hợp với công việc, phát hiện những tiềm năng còn ẩn
giấu trong nhân viên giúp họ phát triển.
Tiến
trình đánh giá chịu ảnh hưởng
của môi trường bên ngoài: Luật lao động, công đoàn. hẳng
hạn, như công đoàn có thể gây áp lực với các cấp quản trị
đòi tăng lương, tăng ngạch cho những người có thâm niên hơn là
dựa vào thành tích công tác. Tiến trình đánh giá bắt đầu
bằng việc xác định mục tiêu của đánh giá, sau đó ấn định
các kỳ vọng hoàn thành công tác của nhân viên, nghĩa là phân tích
lại công việc hay duyệt xét lại bản phân tích công việc. Trên
cơ sở đó xem xét mức độ nhân viên hoàn thành công việc, tiến
hành đánh giá qua việc đối chiếu so sánh giữa công việc đã
thực hiện được với bản phân tích công việc. bước cuối cùng,
sau khi đánh giá là thảo luận việc đánh giá này với nhân viên.
Ðây là vấn đề quan trọng nhất trong quá trình đánh giá năng
lực thực hiện công việc của nhân viên, bởi vì qua đó nhân viên
biết được lãnh đạo đánh giá họ như
thế nào và họ cần làm gì để thực hiện công việc tốt
hơn thông qua phỏng vấn đánh giá.
Thông thường
nhân viên rất thận trọng với những điểm nhận xét đánh giá,
thái độ, hành vi của nhà lãnh đạo. Do đó, các cấp quản trị
cần phải chuẩn bị kỹ cũng như tiến hành một cách cẩn thận,
nếu không tiến trình này sẽ thất bại.
Tùy
theo mục đích phỏng vấn và đối tượng nhân viên, nhà quản
trị có thể lựa chọn các hình thức đánh giá phù hợp. Trong
thực tế, các nhà quản trị có thể gặp những khó khăn khi
thảo luận với nhân viên về đánh giá thực hiện công việc.
Nhiều nhà quản trị cảm thấy rất khó khăn khi phải phê bình nhân
viên, ngược lại, nhân viên cảm thấy khó chấp nhận những phê
bình của cấp trên. Vấn đề quan trọng là phải xây dựng cho
được hệ thống đánh giá khoa học, nhà quản trị phải có năng
lực, có nghệ thuật trong việc thực hiện tiến trình này.
Việc áp
dụng phương pháp đánh giá thực hiện công việc của nhân viên là
tùy thuộc vào xác định mục tiêu đánh giá. Chẳng hạn, mục tiêu
chủ yếu là thăng chức, tăng lương thường áp dụng phương pháp
thang điểm hay bảng điểm (rating scale method) có thể là thích
hợp nhất. Ngược lại, mục tiêu đánh
giá giúp nhân viên làm việc có hiệu quả và phát triển thì phương
pháp đánh giá bằng cách quản trị theo mục tiêu (Management By
Objective - MBO) là thích hợp v.v... .
4.1
Phương pháp mức thang điểm.
Phương
pháp mức thang điểm hay còn gọi là phương pháp bảng điểm
được đánh giá thông qua một đồ thị, bảng 4.3 sẽ cho ta
thấy khái niệm đó.
Bảng 5.3: Phương pháp mức thang điểm.
Tên
nhân viên ................................... Chức
danh công việc ........................ Bộ
quản đốc ..................................... Giai
đoạn đánh giá: .......................... Từ
............. đến ............. |
|||||
CÁC
YẾU TỐ ÐÁNH GIÁ |
Kém
(1đ) |
Dưới
trung bình (2đ) |
Trung
bình(3đ) |
Giỏi (4đ) |
Xuất
sắc (5đ) |
Khối
lượng công việc |
|
|
|
|
|
Chất
lượng công việc |
|
|
|
|
|
Ðáng
tin cậy |
|
|
|
|
|
Sáng
kiến |
|
|
|
|
|
Tính
thích nghi |
|
|
|
|
|
Sự
phối hợp |
|
|
|
|
|
TIỀM
NĂNG TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN TRONG TƯƠNG LAI. Hiện
tại đang ở mức tối đa hoàn thành công việc hoàn thành công
việc Hiện
tại đang ở mức gần tối đa hoàn thành công việc, nhưng có
tiềm năng cải tiến đối với công tác khác như:......................................................................................... Có
khả năng tiến bộ sau khi được đào tạo và có kinh nghiệm Không
thấy có những hạn chế. |
Theo phương pháp
này, đánh giá thực hiện công việc của nhân viên qua một bảng
điểm mẫu. Trong đó liệt kê những yêu cầu chủ yếu đối với
nhân viên khi thực hiện công việc như số lượng, chất lượng,
hành vi, tác phong, sáng kiến và triển vọng của nhân viên .
Các yếu tố
được đánh giá gồm có hai loại:các đặc tính liên quan đến công
việc và các đặc tính liên quan đến cá nhân đương sự. Các
yếu tố liên quan đến công việc thường bao gồm: khối lượng,
chất lượng công việc. Các yếu tố liên quan đến cá nhân gồm
có các đặc tính như: độ tin cậy, sáng kiến,
khả năng thích nghi, khả năng phối hợp.... Người đánh giá điền
vào một mẫu in sẵn bằng cách ghi ký hiệu vào mức độ của
mỗi yếu tố. trong bảng có thể để một khoảng trống để người
đánh giá ghi lời nhận xét.
4.2
Phương pháp xếp hạng.
Phương
pháp đơn giản nhất có lẽ là phương pháp hay kỹ thuật xếp
hạng (ranking method/technique), theo đó người được đánh giá được
xếp hạng theo thứ tự mỗi đặc tính hay yếu tố. Chẳng hạn,
như xét theo yếu tố lãnh đạo, có thể là anh Hùng hạng 1, anh Dương
hạng 2 và anh Tiến hạng 3; nhưng xét về mặt phán đoán thì anh Dương
hạng 1, anh Hùng hạng 2 và anh Tiến hạng 3. Người ta ứng dụng
phương pháp này thành 2 phương pháp cụ thể sau đây:
4.2.1 Phương pháp xếp hạng luân
phiên.
Theo
phương pháp xếp hạng luân phiên, điểm đánh giá dựa trên từng
đặc tính hay yếu tố theo một thứ tự. Ðầu tiên cần phải làm
một bảng danh sách những người được đánh giá. Chẳng hạn đánh
giá trình độ thông minh trong danh sách 22 người. Người đánh giá
thấy có 2 nhân viên không thể đánh giá xét trên yếu tố thông
minh, nghĩa là 2 người này không có yếu tố biểu hiện sự
thông minh, người đánh giá gạch chéo 2 nhân viên này. Như
vậy, còn lại 20 nhân viên để đánh giá mức độ thông minh. (xem
bảng 5.4).
Bảng 5.4 :
Mẫu xếp hạng luân phiên
BẢNG XẾP
HẠNG ÐÁNH GIÁ |
|
Cột 1 |
Cột 2 |
1. Nguyễn văn Mân |
11 |
2. |
12 |
3. |
13 |
... |
... |
10 |
20.
Ðoàn ngọc Lâm |
4.2.2
Phương
pháp so sánh cặp.
Phương pháp so sánh cặp cũng tương
tự như phương pháp xếp hạng luân phiên. Cách tiến hành như sau:
Viết họ tên của tất cả những người được đánh giá trên
một phiếu. Từng cặp nhân viên lần lượt được đem so sánh
về những yêu cầu chính (xem bảng 5.5). Người được đánh giá
tốt hơn hẳn sẽ được cho điểm cao hơn
và ngược lại, người được đánh giá yếu hơn sẽ được
điểm thấp hơn người kia. Sau đó, tổng hợp lại sẽ có kết
quả đánh giá chung về thực hiện của nhân viên đó.
Bảng 5.5: Bảng xếp hạng so sánh cặp.
CHẤT
LƯỢNG CÔNG VIỆC |
|||||
So
sánh |
Tên
nhân viên được đánh giá |
Tổng
hợp |
|||
Mân |
Hùng |
Toàn |
Thanh |
||
Mân |
|
3 |
4 |
3 |
10 |
Hùng |
1 |
|
3 |
1 |
5 |
Toàn |
0 |
1 |
|
0 |
1 |
Thanh |
1 |
1 |
4 |
|
6 |
Theo
kết quả so sánh ở bảng trên, nhân viên Mân được đánh giá tốt nhất về
chất lượng công công việc, còn nhân viên Toàn bị đánh giá kém
nhất.
4.3
Phương pháp ghi chép lưu
trữ.
Nhà
quản trị ghi lại những vụ việc được đánh giá rất tốt,
hoặc rất xấu trong quá trình thực hiện của nhân viên, những
vụ việc bình thường sẽ không ghi lại. Do vậy, những nhân viên
thực hiện công việc rất tốt hoặc rất yếu sẽ được đánh
giá riêng. Ðối với những vụ việc có sai sót lớn cần lưu ý
kiểm tra lại xem nhân viên đó đã khắc phục được chưa để giúp
họ sửa chữa, tránh những sai lầm trong quá trình thực hiện công
việc (xem bảng 5.6).
Bảng 5.6:
Mẫu ghi chép vụ việc quan trọng.
VỤ |
VIỆC
TÍCH CỰC |
VỤ |
VIỆC
TIÊU CỰC |
Ngày
tháng |
Nội
dung |
Ngày
tháng |
Nội
dung |
15
tháng 3 |
Làm
nhiệm vụ thay thế một nhân viên có người thân bị bệnh |
10
tháng 5 |
Khách
hàng phàn nàn về thái độ phục vụ |
4.4
Phương pháp đánh giá quan sát
hành vi.
Phương
pháp đánh giá quan sát hành vi được thực hiện trên cơ sở quan
sát các hành vi thực hiện công việc của nhân viên. Phương pháp
này căn cứ vào hai yếu tố:
-
Số lần quan sát.
-
Tần số nhắc lại của hành vi.
Thông
qua đó nhà quản trị sẽ đánh giá được tình hình thực hiện công
việc của nhân viên. Theo phương pháp này, các hành vi đối với công
việc được mô tả khách quan và được thực trích ra từ bản
ghi chép những vụ việc quan trọng.
Ví
dụ: khi quan sát hành vi của một nhân viên phục vụ trong nhà
hàng cần quan sát những vấn đề sau:
*
Không để khách hàng phàn nàn về sự phục vụ chậm trễ.
*
Không để khách hàng phàn nàn về vệ sinh thực
phẩm.
*
Trình bày các món ăn tạo cảm giác.
-
Không để khách hàng phàn nàn về thái độ phục vụ v.v...
Ðây
là phương pháp khắc phục được nhiều nhược điểm của một
số phương pháp khác. Tuy nhiên, nó cũng có hạn chế như các hành
vi được sử dụng hướng về hoạt động hơn là hướng về
kết quả và phụ thuộc vào trình
độ người đánh giá.
4.5
Phương pháp quản trị theo
mục tiêu (Management by Objectives-BMO).
Theo
phương pháp quản trị theo mục tiêu,
trọng tâm của việc đánh giá:
-
Các đặc tính cá nhân qua sự hoàn thành công việc.
-
Vai trò của nhà quản trị chuyển từ vai trò của người trọng tài
phân xử qua vai trò của người tư vấn, cố vấn.
-
Nhân viên từ thụ động chuyển sang tham dự mang tính tích cực
Chương
trình đánh giá thực hiện công việc theo các
vấn đề như sau.:
-
Sự phối hợp của lãnh đạo và nhân viên trong việc xếp đặt các
mục tiêu cho nhân viên trong một khoảng thời
gian nhất định. Trên cơ sở đã thảo luận bản mô tả công
việc, nội dung công việc, trách nhiệm báo cáo về các việc đó.
-
Ðịnh kỳ xem xét các kết quả đã đạt được.
-
Cấp trên và cấp dưới gặp nhau cuối giai đoạn đánh giá để
thảo luận kết quả của cấp dưới có đạt được mục tiêu đã
đề ra trước đây hay không.
Ðể
thực hiện phương pháp này đạt kết quả, nhà quản trị phải
cởi mở, đảm bảo thông tin hai chiều trong suốt giai đoạn đánh
giá. Hai bên cùng nhau thảo luận để giải quyết vấn đề trong
cuộc phỏng vấn đánh giá nhằm giúp cho nhân viên công tác tốt hơn.
4.6 Phương pháp theo tiêu
chuẩn công việc.
Ðánh
giá theo phương pháp này là đối chiếu so sánh việc hoàn thành công
việc của mỗi nhân viên với tiêu chuẩn đã đề ra hoặc với
mức xuất lượng theo yêu cầu.
Các
tiêu chuẩn phản ánh ở mức bình thường mà một nhân viên bình
thường đạt được ở điều kiện bình thường. Các tiêu chuẩn
công việc thường được sử dụng đối với sản xuất. Có rất
nhiều phương pháp được sử dụng để xác định các tiêu
chuẩn như: nghiên cứu thời gian, nghiên cứu cử động hoặc lấy
mẫu công việc.
Ưu
điểm của phương pháp này là tính khách quan của nó, Tuy nhiên đòi
hỏi các tiêu chuẩn phải được xây dựng một cách khoa học, chính
xác và nhân viên phải giải thích khi thay đổi tiêu chuẩn và cơ
sở của việc thay đổi đó.
Ngoài
các phương pháp trên, các công ty lớn tại các nước phát triển
trên thế giới còn áp dụng các phương pháp khác như: phương pháp
đánh giá phân bổ theo chỉ tiêu, phương pháp tường trình thực
hiện công việc theo trọng số. Các phương pháp này phức tạp nên
ít công ty áp dụng, trong phạm vi chương này chỉ nêu tên mà không
trình bày cụ thể, bạn đọc có thể nghiên cứu sâu hơn trong các
sách quản trị nhân sự.
Khi
đánh giá khả năng thực hiện công việc của nhân viên, nhà
quản trị thường vấp phải một số sai lầm cần phải chú ý
khắc phục như sau:
-
Tiêu chuẩn không rõ ràng.
-
Lỗi thiên kiến: chỉ dựa vào một yếu tố đặc điểm nào đó
nổi trội của nhân viên.
-
Xu hướng thái quá: Một số nhà quản trị có xu hướng đánh giá
tất cả nhân viên theo xu hướng quá cao hoặc quá thấp. Cách đánh
giá này khiến cho nhân viên hoặc tự mãn, hoặc bi quan không muốn
cố gắng phấn đấu để thực hiện công việc.
-
Xu hướng trung bình chủ nghĩa: đánh giá chung
chung hướng về mức trung bình.
-
Ðịnh kiến cá nhân.
Nhà
quản trị phải làm cho nhân viên tin tưởng vào sự công bằng.
Trong đánh giá cần phải dân
chủ , cho nhân viên được tham dự
trong tiến trình này. Hệ thống đánh giá phải được thực
hiện xây dựng một cách kỹ lưỡng, người phụ trách đánh giá
phải được huấn luyện toàn diện. Trên cơ sở đánh giá đúng
đắn khách quan để thực hiện chính sách lương
thưởng, kỷ luật kịp thời, nghiêm minh nhằm khuyến khích, động
viên nhân viên, chú ý đào tạo phát triển họ đảm bảo cho doanh
nghiệp có được nguồn nhân lực
đáp ứng chiến lược kinh doanh trong
tương lai.
Khái
niệm và cơ cấu tiền lương rất đa dạng ở các nước trên
thế giới. Ở Pháp, sự trả công được hiểu là tiền lương,
hoặc lương bổng có bản, bình thường hay tối thiểu và mọi
thứ lợi ích, các khoản phụ khác được trả trực tiếp hay gián
tiếp, bằng tiền hay hiện vật, mà người sử dụng lao động
trả cho người lao động theo việc làm của người lao động
Đài
Loan: Tiền lương chỉ mọi khoản thù lao mà người công nhân
nhận được do làm việc; bất luận là dùng tiền lương, lương
bổng, phụ cấp có tính chất lương, tiền thưởng hoặc dùng
mọi danh nghĩa khác để trả cho họ theo giờ, ngày tháng, theo
sản phẩm
Nhật
Bản: Tiền lương, bất luận được gọi là tiền lương, lương
bổng, tiền được chia lãi hoặc những tên gọi khác là chỉ thù
lao cho lao động mà người sử dụng lao động chi trả cho công nhân
Tổ
chức lao động quốc tế (ILO):Tiền
lương là sự trả công hoặc thu nhập, bất luận tên gọi hay cách
tính thế nào, mà có thể biểu hiện bằng tiền và được ấn định
bằng thỏa thuận giữa người sử dụng lao động
và người lao động, hoặc bằng pháp luật, pháp
qui quốc gia, do người sử dụng lao động phải trả cho người
lao động theo một hợp đồng lao động được viết ra hay bằng
miệng, cho một công nhân đã
thực hiện hay sẽ phải thực hiện, hoặc cho những dịch vụ đã
làm hay sẽ phải làm.
Bản chất tiền lương cũng thay đổi tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nhận thức của con người. Với việc áp dụng quản trị nguồn nhân lực vào trong doanh nghiệp, tiền lương không phải đơn thuần chỉ là giá cả sức lao động, quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động đã có những thay đổi căn bản, quan hệ này có thể chuyển từ hình thức bóc lột, mua bán hàng hóa sang hình thức quan hệ hợp tác song phương, đôi bên cùng có lợi hay không và bản chất tiền lương là gì, hiện vẫn còn là những vấn đề đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu, phát triển.
* Theo quan điểm cải cách tiền lương
Tiền
lương là giá cả sức lao động, được hình thành qua thỏa
thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động phù
hợp với quan hệ cung cầu sức lao động trong nền kinh
thị trường
Tiền lương của người lao động
do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao đồng
và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu
quả công việc
Ngoài ra "các chế độ
phụ cấp, tiền thưởng, nâng bậc lương, các chế độ khuyến khích
khác có thể được thỏa thuận trong hợp đồng lao động, thỏa
ước tập thể hoặc quy định trong doanh nghiệp"
Cơ cấu lương bổng và đãi ngộ theo
R. Wayne Mondy và Robert M.Noe bao gồm có hai phần: phần thu nhập tài
chính và phần thu nhập phi tài chính, được biểu hiện qua sơ đồ
4.6
2.1 Phần
tài chính
Phần tài chính gồm hai mặt: Trực
tiếp và gián tiếp. Tài chính trực tiếp bao gồm: lương công
nhật, lương tháng, tiền hoa hồng, tiền thưởng. Tài chính gián
tiếp bao gồm: chế độ bảo hiểm, các loại phúc lợi, tiền lương
khi vắng mặt.
2.1.1 Tiền lương cơ
bản: là tiền lương được xác định trên cơ sở tính đủ các
nhu cầu về: sinh học, xã hội học, mức
độ phức tạp, mức tiêu
hao sức lao động trong điều kiện lao động trung
bình của từng ngành nghề, công việc.
Khu
vực hành chính sự nghiệp: được xác định qua hệ thống thang,
bảng lương Nhà Nước, để xếp vào một bậc lương nhất định:
đòi hỏi cần phải có:
- Trình
độ lành nghề
- Kiến
thức
- Kinh nghiệm làm việc
nhất định
Trong thực tế, người lao động trong
khu vực nhà nước thường coi lương cơ bản là thước đo chủ
yếu về trình độ lành
nghề và thâm niên nghề
nghiệp.
2.1.2 Phụ
cấp lương: là
tiền trả công lao động ngoài
tiền lương cơ bản, bổ sung và bù đắp thêm khi người lao động làm việc trong điều
kiện không ổn định
hoặc không thuận lợi mà chưa được tính đến khi xác định lương
cơ bản. Ngoài ra, trong thực tế có một loại phụ cấp khác, không
phải là phụ cấp lương, cách tính không phụ thuộc vào mức lương
người lao động như: phụ cấp di chuyển, phụ cấp đi đường.,v.v…
Phần lớn các khoản tiền phụ cấp đều được tính trên cơ
sở đánh giá ảnh hưởng của môi trường làm việc.. Tiền phụ
cấp có ý nghĩa kích thích người lao động thực hiện tốt công
việc trong những điều kiện khó khăn, phức tạp hơn bình thường.
2.1.3 Tiền
thưởng: là
hình thức kích thích vật chất có tác dụng rất tích cực đối
với người lao động trong việc phấn đấu thực hiện công việc
tốt hơn. Trong thực tế, các doanh nghiệp có thể áp dụng một
số hoặc tất cả các loại thưởng: thưởng tiết kiệm nguyên
vật liệu, thưởng tăng năng suất, thưởng sáng kiến, thưởng hoàn
thành vượt kế hoạch, thưởng tìm được nơi cung ứng, tiêu
thụ , ký kết hợp đồng mới; thưởng về lòng trung thành, tận
tâm với doanh nghiệp.
Cách tính tiền thưởng rất đa
dạng, thông thường các loại tiền thưởng năng
suất; thưởng tiết kiệm; thưởng sáng kiến,
thưởng cho nhân viên tìm được các khách hàng mới được xác định
bằng tỷ lệ phần trăm so với phần lợi ích mà nhân viên đem
lại cho doanh nghiệp.
2.1.4 Các loại phúc
lợi: các loại phúc lợi mà người
lao động được hưởng rất đa dạng và phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau như quy định của chính phủ, tập quán trong nhân
dân, mức độ phát triển kinh tế và khả năng tài chính, hoàn
cảnh cụ thể của doanh nghiệp. Phúc lợi thể hiện sự quan tâm
của doanh nghiệp đến đời sống người lao động, có tác dụng
kích thích nhân viên trung thành, gắn bó với doanh nghiệp. Phúc
lợi của doanh nghiệp gồm có: bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y
tế, hưu trí, nghỉ phép, nghỉ lễ, ăn trưa,
trợ cấp cho các nhân viên khi gặp khó khăn, tăng quà cho nhân viên
nhân ngày sinh nhật, cưới hỏi, mừng thọ cha mẹ nhân viên…
Ngày nay, khi cuộc sống của người
lao động đã được cải thiện rõ rệt, trình độ văn hóa, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp của người lao động được nâng cao,
người lao động mong muốn không chỉ có các yếu tố vật chất mà
còn muốn được có những cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp,
được thực hiện những công việc có tính thách thức, thú
vị… . Để khuyến khích tạo động cơ làm việc cho nhân viên,
nhà quản trị cần chú ý các yếu tố phi tài
chính trong cơ cấu thu nhập của người lao động, xây dựng bầu
không khí làm việc thích hợp.
2.2
Thù
lao phi vật chất: được
xem xét dựa trên các yếu tố:
2.2.1 Bản
thân công việc
- Nhiệm
vụ hứng thú
- Trách
nhiệm
- Công
việc đòi hỏi mức phấn đấu
- Có
cơ hội được cấp trên nhận biết thành tích
- Cảm
giác hoàn thành công việc
- Có
cơ hội được thăng tiến
2.2.2 Khung
cảnh công việc
- Chính sách hợp lý
- Đồng nghiệp hợp tính
- Biểu tượng địa vị phù hợp
- Điều kiện làm việc thoải mái
- Giờ làm việc uyển chuyển: chọn giờ phù hợp
với hoàn cảnh
- Tuần lễ làm việc dồn lại
- Chia
sẻ công việc: hai nhân viên
có thể chia sẻ công việc bán thời gian
- Làm việc ở nhà truyền qua computer
Hệ thống tiền lương được xây
dựng trong doanh nghiệp phải nhằm đạt được bốn mục tiêu cơ
bản:
- Thu hút nhân viên
- Duy
trì những nhân viên giỏi
- Kích thích, động viên nhân viên
- Đáp ứng các yêu cầu của pháp luật
3.1
Thu hút nhân viên:
Ứng viên đi tìm việc thường
không
biết mức lương chính xác cho những công việc tương tự, họ thường
khó so sánh về mức phúc lợi, khen thưởng, cơ hội thăng
tiến trong nghề nghiệp, hay tính
thách thức, thú vị của công việc. Với mức lương đề nghị
khi tuyển dụng đó là yếu
tố cơ bản để ứng viên quyết định có làm ở doanh
nghiệp hay không, lương càng
cao càng có khả năng thu hút nhân viên giỏi.
3.2 Duy trì những nhân viên
giỏi
Để duy trì nhân viên giỏi
ngoài mức lương cao còn phải thực
hiện công bằng trong nội bộ doanh nghiệp. Khi không công
bằng, nhân viên sẽ cảm thấy : khó chịu,
bị ức chế, chán nản và dễ rời bỏ doanh nghiệp.
Tính công bằng thể hiện:
- Phân
công công việc, đánh giá mức độ thực hiện công việc
-
Không phân biệt giới tính, dân tộc
-
Màu da, nguồn gốc gia đình
Các
yếu tố ảnh hưởng đến việc trả tiền lương rất đa dạng,
phong phú, và có thể phân thành các nhóm và được biểu hiện qua
sơ đồ 5.7:
4.1
Căn cứ vào bản thân doanh nghiệp
Công
việc là yếu tố chính quyết định và ảnh hưởng đến
lương bổng. Hầu hết các doanh nghiệp
chú trọng đến giá trị thực sự của từng công việc cụ
thể. Có rất nhiều phương pháp đánh giá công việc:
4.1.1
Phân tích công việc và mô tả công việc
Để
đánh giá được công việc một cách khách quan, cần phải dựa trên
các phương pháp phân tích khoa học, từ những dữ kiện này sẽ
phác họa lên bản mô tả chi tiết công việc
quy định các kỹ năng, quy định các hoạt động hàng ngày, trách
nhiệm, cố gắng, điều kiện làm việc và các tiêu chuẩn khác.
4.1.2
Đánh giá công việc
Để
đánh giá được công việc, cần phải lựa chọn những yếu tố
căn bản để có thể đo lường giá trị và tầm quan trọng của
công việc. Việc đánh giá công việc dựa vào những mục tiêu sau
đây:
-
Xác định cấu trúc công việc trong tổ chức.
-
Mang đến sự bình đẳng trong công việc.
-
Triển khai những thứ bậc công việc làm căn cứ cứ trả lương.
-
Đạt được sự nhất trí giữa cấp quản trị và nhân viên
+
Các yếu tố thuộc về bản thân công việc cần đánh giá:
*
Kỹ năng
·
Yêu cầu lao động trí
óc.
·
Mức độ phức tạp của công việc.
·
Các phẩm chất cá nhân cần thiết.
·
Khả năng ra quyết định, đánh giá.
·
Kỹ năng quản trị.
·
Các kiến thức về giáo dục, đào tạo cần thiết cho công
việc.
·
Các kỹ năng xã hội.
·
Khả năng hòa đồng với người khác.
·
Khả năng thực hiện những công việc chi tiết.
·
Khả năng thực hiện.
·
Sự khéo léo tay chân
·
Khả năng bẩm sinh.
·
Tính linh hoạt, tháo vát, kinh nghiệm .
*
Trách nhiệm:
·
Tiền bạc, khen thưởng tài chính, sự cam kết trung thành.
·
Ra quyết định.
·
Kiểm soát, lãnh đạo người khác.
·
Kết quả tài chính.
·
Quan hệ với cộng động, khách hàng.
·
Tính chất phụ thuộc, chu đáo - chất lượng công việc.
·
Vật liệu, dụng cụ, tài sản.
·
Chính sách của doanh nghiệp.
·
Đầy đủ thông tin.
* Cố gắng:
·
Yêu cầu thể lực.
·
Yêu cầu về trí óc.
·
Quan tâm đến những điều chi tiết.
·
Áp lực của công việc.
·
Những yêu cầu cần quan tâm khác
*
Điều kiện làm
việc: Điều
kiện công việc,
các rủi ro khó tránh
Bảng
5.7: Mức độ phức tạp của
các yếu tố công việc
CÔNG
VIỆC |
YẾU
TỐ |
||||
Trí
óc |
Thể
lực |
Trách
nhiệm |
Điều
kiện làm việc |
||
Chuyên
viên phân tích hệ thống |
4 |
4 |
2 |
1 |
3 |
Thư
ký
nhập liệu |
1 |
1 |
1 |
4 |
1 |
Chuyên
viên lập chương trình |
2 |
3 |
3 |
2 |
4 |
Điều
hành viên |
3 |
2 |
4 |
3 |
2 |
Bảng trên, trình bày cụ thể việc xếp hạng này đối
với các công việc của những người sử dụng máy computer, trước
hết nhà quản trị cần phân tích và đánh giá về các yêu cầu
trí óc. Đối với việc sử dụng trí óc thì chuyên viên phân tích
hệ thống sử dụng nhiều nhất, kế đến là nhân viên thảo chương
trình, sau đó đến điều hành viên và cuối cùng là nhân viên
nhập dữ liệu
4.2
Căn cứ vào bản thân nhân viên
-
Thực hiện công việc, năng suất.
-
Kinh nghiệm
-
Thâm niên.
-
Khả năng thăng tiến.
-
Sự ưa thích cá nhân.
-
Thích thú vị trí xã hội, điều kiện yêu cầu.
-
Mức độ an toàn trong trả lương.
-
Thời gian làm việc.
-
Mức độ làm việc (đều đều, đơn điệu).
-
Các yếu tố khác - nhiều doanh nghiệp
còn xét cả về mặt ảnh hưởng của chính trị, v.v...
4.3
Môi trường công ty
Chính
sách và bầu không khí văn hóa của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng
đến chế độ lương bổng.
- Một số doanh nghiệp muốn
thu hút nhân tài thường trả lương cao hơn các công ty khác. Trả
lương cao cũng thúc đẩy nhân viên làm việc có hiệu quả.
- Một số doanh nghiệp khác lại áp dụng mức lương hiện hành
nghĩa là mức lương mà đại đa số công ty đang áp dụng.
- Có doanh nghiệp lại
áp dụng trả lương thấp hơn mức lương hiện hành. Đó là vì
tại công ty này đang lâm vào tình trạng
tài chính khó khăn, công việc đơn giản
không đòi hỏi nhiều về kỹ năng .v.v...
Cơ
cấu tổ chức của công ty cũng ảnh hưởng đến cơ cấu tiền lương.
Trong một cơ cấu mà nhiều tầng nấc trung gian trong bộ máy tổ
chức quản trị thì thường chi phí quản lý
rất lớn do đó cơ cấu tiền lương sẽ bị giảm đối với
những nhân viên thừa hành.
4.4
Thị trường lao động
Với
tư cách là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập thì mọi
doanh nghiệp đều phải quan tâm đến lợi nhuận. Nhưng với tư cách
là một tế bào kinh tế của xã hội, mọi doanh nghiệp đều
phải quan tâm đến những vấn đề của xã hội đang xảy ra bên
ngoài doanh nghiệp. Do đó, khi nghiên cứu về định mức tiền lương,
doanh nghiệp còn phải quan tâm đến các vấn đề lương bổng trên
thị trường, chi phí sinh hoạt, các tổ chức công đoàn, xã hội,
nền kinh tế và cả đến hệ thống pháp luật v.v... Chỉ riêng
về yếu tố luật pháp, chính sách lương bổng cũng phải tuân
theo luật lệ của nhà nước.
5.
Các hình thức tiền lương
|
5.1
Những nguyên tắc cơ bản của tổ chức tiền lương
Dưới chế độ XHCN dù thực hiện bất kỳ hình thức tiền
lương nào, muốn phát huy đầy đủ tác dụng đòn bẩy kinh tế
của nó đối với sản xuất và đời sống phải thực hiện đầy
đủ những nguyên tắc sau:
- Trả lương bằng nhau cho lao động như nhau
Nguyên
tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc phân phối theo lao động. Trả
lương bằng nhau cho lao động như nhau có nghĩa là khi quy định
tiền lương, tiền thưởng cho công nhân viên chức nhất thiết không
được phân biệt giới tính tuổi tác, dân tộc mà phải trả cho
mọi người đồng đều số lượng, chất lượng mà họ cống
hiến cho xã hội.
-
Bảo đảm tốc độ tăng năng suất lao động bình quân phải nhanh
hơn tốc độ tăng tiền lương trung bình trong toàn doanh nghiệp
và trong kỳ kế hoạch. Tiền lương bình quân tăng chủ yếu
phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản do nâng cao năng suất lao động
như nâng cao trình độ lành nghề, giảm bớt thời gian tổn thất
cho lao động. Còn năng suất lao động tăng không phải chỉ do
những nhân tố trên mà còn trực tiếp phụ thuộc vào các nhân
tố khách quan như: áp dụng kỹ thuật mới, sử dụng hợp
lý tài nguyên thiên nhiên, tổ chức tốt lao động và các quá
trình sản xuất. Như vậy tốc độ tăng năng suất lao động rõ ràng
có điều kiện khách quan để lớn hơn tốc độ tăng tiền lương
bình quân. Đây là nguyên tắc quan trọng khi tổ chức tiền lương.
Có như vậy mới tạo cơ sở giảm giá thành, hạ giá cả, tăng tích
lũy để tái sản xuất mở rộng.
-
Bảo đảm thu nhập tiền lương hợp lý giữa các ngành nghề khác
nhau trong nền kinh tế.
Khi
trả lương cho công nhân cần chú ý đến các vấn đề sau:
+ Mỗi ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân có tính chất
phức tạp về kỹ thuật khác nhau. Do đó đối với những người
lao động lành nghề làm việc trong các ngành có yêu cầu kỹ
thuật phức tạp phải trả lương cao hơn những những người lao
động làm việc trong những ngành không có yêu cầu kỹ thuật cao.
+
Tiền lương bình quân giữa các ngành có điều kiện lao động khác
nhau cần có sự chênh lệch khác nhau. Công nhân làm việc trong điều
kiện nặng nhọc có hại đến sự khỏe phải được trả lương
cao hơn những người làm việc trong điều kiện
bình thường.
Đối
với những cơ sở sản xuất ở những vùng xa xôi hẻo lánh, điều
kiện khí hậu, giá cả sinh hoạt đắt đỏ, đời sống khó khăn
nhân lực thiếu... cần phải dược đãi ngộ tiền lương cao hơn
hoặc thêm những khoản phụ cấp
thì mới thu hút được công nhân đến làm việc.
+
Khuyến khích bằng lợi ích vật chất kết hợp giáo dục chính
trị tư tưởng cho người lao động
5.2
Trả lương theo sản phẩm
Hiện
nay phần lớn các nhà máy, xí nghiệp ở nước ta đều áp dụng hình
thức trả lương theo sản phẩm là hình thức tiền lương căn cứ
vào số lượng, chất lượng sản phẩm để trả lương cho cán
bộ công nhân viên chức.
Sở
dĩ như vậy là vì chế độ lương cấp bậc, các khoản phụ cấp
chưa kiểm tra giám sát được chặt chẽ về sức lao động của
mỗi người để đãi ngộ về tiền lương một cách đúng đắn.
Hình thức tiền lương trả theo sản phẩm là hình
thức căn bản để thực hiện quy luật phân phối theo lao động.
Để quán triệt đầy đủ hơn nữa nguyên tắc phân phối theo số
lượng và chất lượng lao động nghĩa là căn cứ trực tiếp vào
kết quả lao động của mỗi người sản xuất: ai làm nhiều,
chất lượng sản phẩm tốt, được hưởng nhiều lương; ai làm
ít, chất lượng sản phẩm xấu thì hưởng ít lương. Những người
làm việc như nhau thì phải được hưởng lương bằng nhau. Mặt
khác chế độ trả lương theo sản phẩm còn phải căn cứ vào
số lượng lao động, chất lượng lao động kết tinh trong từng
sản phẩm của mỗi công nhân làm ra để trả lương cho họ, làm
cho quan hệ giữa tiền lương và năng suất lao động, giữa lao động
và hưởng thụ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
5.2.1
Tác dụng của trả lương
theo sản phẩm:
Thực
hiện chế độ trả lương theo sản phẩm có những tác dụng như
sau:
-
Làm cho mỗi người lao động vì lợi ích vật
chất mà quan tâm đến việc nâng cao năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm, bảo đảm hoàn thành toàn diện và vượt mức
kế hoạch được giao. Vì hình thức lương sản phẩm căn cứ
trực tiếp vào số lượng, chất
lượng sản phẩm của mỗi người sản xuất ra để tính lương nên
nó có tác dụng khuyến khích người công nhân tích cực sản
xuất, tận dụng thời gian làm việc tăng năng suất. Hơn nữa
chỉ những sản phẩm tốt mới được trả lương cao nên người
công nhân nào cũng cố gắng đảm bảo chất lượng sản phẩm
tốt. Như vậy năng suất lao động tăng, chất lượng sản phẩm
bảo đảm thì giá thành sản phẩm sẽ hạ.
- Khuyến
khích người công nhân quan tâm đến
việc nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, khoa học
kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và lao động,
tích cực sáng tạo và áp dụng các phương pháp sản xuất
tiên tiến. Khi thực hiện trả lương theo sản phẩm, công nhân
phải phấn đấu để thường xuyên đạt và vượt mức các định
mức lao động đề ra, do đó họ không đơn thuần dựa vào sự
lao động hết sức mình, tận dụng thời gian làm việc mà phải
cố gắng học tập để không ngừng nâng cao trình độ văn hóa
khoa học kỹ thuật thì mới có thể dễ dàng tiếp thu nắm vững
và áp dụng các phương pháp sản xuất tiên tiến. Hơn nữa còn
phải biết tìm tòi suy nghĩ để phát huy sáng kiến, cải tiến
kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Có như vậy thì sản phẩm làm
ra sẽ tăng và sức lao động sẽ giảm xuống.
-
Đẩy mạnh việc cải tiến, tổ chức quá trình sản xuất,
thúc đẩy việc thực hiện tốt chế độ hạch
toán kinh tế. Khi áp dụng chế độ tiền lương tính theo sản
phẩm đòi hỏi phải có sự chuẩn bị sản xuất nhất định.
Phải củng cố kiện toàn tổ chức sản xuất, kỹ thuật sản
xuất, tổ chức lao động đảm bảo cho quá trình sản xuất được
cân đối hợp lý. Trong quá trình thực hiện do năng suất lao động
của công nhân tăng, nhiều vấn đề mới đặt ra cần phải giải
quyết như cung cấp nguyên vật liệu đúng quy cách chất lượng,
kịp thời gian. Kiểm tra nghiệm thu được chính xác chất lượng
sản phẩm. Điều chỉnh lại lao động trong dây chuyền sản
xuất. Thống kê thanh toán tiền lương nhanh chóng chính
xác, đúng kỳ hạn v.v... Các vấn đề đó ảnh hưởng trực
tiếp đến năng suất lao động, tiền lương của công nhân nên
họ rất quan tâm phát hiện và yêu cầu giải quyết. Bất kỳ
một hiện tượng nào vi phạm đến kỹ thuật công nghệ và chế
độ phục vụ công tác, người công nhân không những tìm cách
khắc phục kịp thời mà còn tích cực đề phòng những khuyết điểm
có thể xảy ra. Đồng thời đấu tranh chống những hiện tượng
tiêu cực, làm việc thiếu trách nhiệm trong cán bộ quản lý và công
nhân sản xuất.
-
Củng cố và phát triển
mạnh mẽ phong trào thi đua XHCN, xây dựng tác phong thái độ lao động
XHCN. Phong trào thi đua phát triển là do
ý thức giác ngộ XHCN và trình độ văn hóa kỹ thuật của
công nhân, do năng suất lao động mà có. Muốn thi đua được duy
trì thường xuyên liên tục thì phải bồi dưỡng bằng vật chất
mới có tác dụng. Trả lương theo sản phẩm là phương tiện tốt
để thực hiện yêu cầu đó. Động viên thi đua liên tục và
mạnh mẽ đồng thời áp dụng một cách đúng đắn chế độ
tiền lương tính theo sản phẩm sẽ kết hợp chặt chẽ được
hai mặt khuyến khích bằng lợi ích vật chất và động viên tinh
thần để thúc đẩy và phát triển sản xuất.
Qua
những tác dụng kể trên ta thấy chế độ trả lương theo sản
phẩm có ý nghĩa kinh tế, chính trị quan trọng. Nó động viên
mạnh mẽ mọi người tích cực sản xuất với chất lượng tốt
và năng suất cao. Vừa tăng thu nhập cho cá nhân người lao động
vừa làm tăng sản phẩm cho xã hội góp phần thay đổi nền kinh
tế đất nước.
5.2.2
Điều kiện và hình thức
trả lương theo sản phẩm
Muốn
tổ chức trả lương theo sản phẩm doanh nghiệp phải chuẩn bị các
điều kiện sau đây:
-
Công tác chuẩn bị sản
xuất
+
Chuẩn
bị về nhân lực: Khi tổ chức trả lương theo sản phẩm,
việc chuẩn bị về nhân lực là vấn đề cần thiết vì con người
là yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất. Con người có quán
triệt chế độ lương sản phẩm thì mới nâng cao tinh thần trách
nhiệm tích cực và quyết tâm tạo điều kiện cần thiết cho
việc thực hiện chế độ lương sản phẩm. Để chuẩn bị tốt
yếu tố con người cần phê phán các tư tưởng
rụt rè, cầu toàn, khuynh hướng làm bừa làm ẩu. Thiếu chuẩn
bị điều kiện cần thiết, thiếu chỉ đạo chặt chẽ gây hoang
mang dao động cho công nhân. Phải giải thích giáo dục cho công nhân
hiểu rõ mục đích ý nghĩa của chế độ lương sản phẩm và cho
họ thấy mục tiêu phấn đấu của họ về sản lượng và năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất. Ngoài
ra còn phải bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ lao động
tiền lương, cán bộ kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm
v.v...
+
Chuẩn
bị về kế hoạch sản xuất: Kế hoạch sản xuất phải rõ ràng
cụ thể, phải tổ chức cung cấp đầy đủ thường xuyên nguyên
vật liệu, máy móc thiết bị và phương tiện phòng hộ lao động
để công nhân có thể sản xuất được liên tục.
+
Xác định đơn giá lương sản phẩm:
Để
thực hiện chế độ lương sản phẩm cần xác định đơn giá lương
sản phẩm cho chính xác trên cơ sở xác định cấp bậc công
việc và định mức lao động chính xác.
* Xác định cấp bậc công
việc: Như ta đã biết đơn giá lương sản phẩm được tính
như sau:
Mức lương CBCNV + phụ cấp
Đơn
giá sản phẩm =
Mức sản lượng
Như
vậy muốn có đơn giá hợp lý, chính xác định đúng đắn cấp
bậc công việc. Nếu cấp bậc công việc được đánh giá xác định
cao hơn yêu cầu kỹ thuật thì đơn giá sẽ cao hơn hoặc ngược
lại - do đó nếu xí nghiệp chưa có cấp bậc công việc thì
phải xây dựng cấp bậc công việc, nếu có rồi thì phải rà soát
lại để kịp thời sửa đổi những cấp bậc công việc đã
lạc hậu.
*
Định mức lao động:
Định mức lao động là thước đo tiêu chuẩn về lao động, đánh
giá kết quả lao động và tính đơn giá lượng. Nếu định mức
lao động không phù hợp thì đơn giá lương sẽ sai và
tiền lương của công nhân sẽ tăng hoặc giảm không hợp lý. Do
đó sẽ không khuyến khích công nhân tăng năng suất lao động.
Định mức lao động để trả lương sản phẩm là mức lao
động trung bình tiến tiến - do đó phải xây dựng định mức
từ tình hình thực tế sản xuất ở doanh nghiệp
đã được chấn chỉnh. Các mức lao động đang áp dụng
[nếu có] phải kiểm tra lại để kịp thời sửa đổi những
mức bất hợp lý không sát thực tế sản xuất.
* Công tác kiểm tra nghiệm thu sản
phẩm
Yêu cầu của chế độ lương sản phẩm là đảm bảo thu
nhập tiền lương theo đúng số lượng và chất lượng sản phẩm
đã hoàn thành theo xác nhận của K.C.S, do đó cần phải kiểm tra
nghiệm thu sản phẩm chặt chẽ nhằm đảm bảo sản
xuất những sản phẩm có chất lượng tốt, tránh khuynh hướng
chạy theo sản lượng để tăng thu nhập, làm ra những sản phẩm
sai, hỏng, không đúng quy cách và yêu cầu kỹ thuật đồng thời
đảm bảo việc trả lương cho công nhân đúng đắn kịp thời.
* Công
tác tổ chức đời sống
Cần phải tổ chức tốt công tác đời sống làm cho công nhân
yên tâm phấn khởi sản xuất và phục vụ sản xuất. Đời sống
của công nhân trước hết là vấn đề thu nhập tiền lương trong
lao động, sinh hoạt đời sống của công nhân
như: ăn, ở, đi lại... đều phải có kế hoạch giải quyết tốt
những vấn đề này sẽ tạo điều kiện cho công nhân yên tâm
sản xuất đạt năng suất cao nhất, chất lượng tốt. Đó chính
là tính ưu việt của hình thức trả lương theo sản phẩm làm cho
công nhân tin tưởng sâu sắc vào đời sống của họ có liên quan
mật thiết với sự lao động trung thành của họ đối với xí
nghiệp.
5.2.3
Hình
thức trả lương theo sản phẩm :
5.2.3.1
Chế độ trả lương sản phẩm trực tiếp không hạn chế.
Chế độ tiền lương này được trả theo từng đơn vị
sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm và theo đơn giá nhất định.
Tiền lương của công nhân căn cứ vào số lượng sản phẩm
hoặc chi tiết sản phẩm do họ trực tiếp sản xuất được để
trả lương. Bất kỳ trường hợp nào công nhân sản xuất thấp hơn,
đạt hoặc vượt định mức sản phẩm đều được trả theo đơn
giá nhất định. Như vậy, tiền lương của công nhân sẽ tăng
theo số sản phẩm sản xuất được. Nếu sản xuất được
nhiều sản phẩm thì được trả nhiều lương và ngược lại
sản xuất được ít sản phẩm thì được trả ít lương.
Đơn giá sản phẩm là cơ sở của hình thức tiền lương tính
theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế. Khi xác định đơn giá
sản phẩm người ta căn cứ vào 2 nhân tố: định mức lao động
và mức lương cấp bậc công việc.
Định mức lao động: là
những đại lượng thời gian lao động cần thiết được quy định
để hoàn thành một công việc, một khối lượng công việc, một
sản phẩm, hay một chức năng nào đó đúng theo chất lượng đã
được quy định trong những điều kiện tổ chức kỹ thuật, tâm
sinh lý, kinh tế xã hội nhất định. Định mức lao động có các
loại như: mức sản lượng, mức thời gian, mức phục vụ, mức
quản lý.
Công thức tính đơn giá sản phẩm như sau:
- Nếu công việc tính có
định mức sản lượng:
Mức
lương cấp bậc công việc + phụ cấp
Đơn giá =
Mức sản lượng
-
Nếu công việc được định mức thời gian:
Đơn giá
= Mức lương cấp bậc
công việc x mức thời gian
Khi
tính đơn giá sản phẩm ta phải lấy mức lương cấp bậc công
việc để tính chứ không lấy mức lương cấp bậc công nhân được
giao làm công việc đó, vì có những trường hợp lương cấp bậc
công nhân cao hoặc thấp hơn cấp bậc công việc được giao làm
cho đơn giá sản phẩm thay đổi, sẽ phá vỡ tính thống nhất
của chế độ tiền lương trả theo sản phẩm và tính hợp lý
của quy luật phân phối theo lao động. Về định mức lao động,
khi tính đơn giá ta phải xác định mức của công việc đó là
mức thời gian hay mức sản lượng để tính cho chính xác.
Chế
độ tiền lương tính theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế thích
hợp với những loại công việc có thể tiến hành định mức lao
động, giao việc và nghiệm thu từng đơn vị sản phẩm hoặc chi
tiết sản phẩm riêng rẽ được. Tùy theo đặc điểm về tổ
chức kỹ thuật sản xuất, nếu những công việc người công nhân
có thể tiến hành thống kê nghiệm thu sản phẩm riêng cho từng
cho công nhân và trả lương trực tiếp cho từng công nhân. Nếu công
nhân việc cần nhiều công nhân phối hợp, cộng tác với nhau
mới sản xuất ra một sản phẩm thì có thể tiến hành trả lương
trực tiếp cho nhóm hoặc tổ sản
xuất đó.
5.2.3.2 Chế độ tiền lương theo sản phẩm gián tiếp
Chế
độ lương này không áp dụng đối với công nhân trực tiếp
sản xuất mà chỉ áp dụng cho công nhân phục vụ sản xuất. Công
việc của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đạt và vượt
mức của công nhân chính hưởng lương theo sản phẩm. Nhiệm vụ
và thành tích của họ gắn liền với lương của công nhân đứng
máy. Tiền lương của công nhân phục vụ được tính căn cứ vào
số lượng sản phẩm của công nhân đứng máy sản xuất ra.
Những công nhân sửa chữa máy nếu áp dụng chế độ lương
sản phẩm gián tiếp cần phải
quy định và kiểm tra chặt chẽ việc nghiệm thu trong định
kỳ sửa chữa máy, đề phòng hiện tượng tiêu cực đồng tình
với công nhân đứng máy chạy theo sản lượng, cho máy chạy quá
mức làm cho máy hỏng.
Đơn
giá sản phẩm gián tiếp được
tính bằng cách lấy mức lương
tháng của công nhân phục vụ chia cho định mức sản xuất chung
của những công nhân đứng máy do công nhân đó phục vụ. Như
vậy nếu những công nhân đứng
máy trực tiếp sản xuất sản phẩm càng nhiều, tiền lương của
số công nhân phục vụ càng nhiều và ngược lại. Nếu như
những công nhân đứng máy sản xuất được ít
sản phẩm thì tiền lương của công nhân phục vụ càng ít.
Khi
thực hiện chế độ tiền lương này
thường xảy ra hai trường hợp và cách giải quyết như
sau:
·
Nếu bản thân công nhân phục vụ có sai lầm làm cho công nhân
chính sản xuất ra sản phẩm hỏng, chất lượng xấu thì tiền lương
của công nhân phục vụ hưởng theo chế độ trả lương khi làm
ra sản phẩm hỏng, không đảm bảo chất lượng song vẫn đảm
bảo ít nhất bằng mức lương cấp bậc của người đó.
·
Nếu công nhân đứng máy không hoàn thành định mức sản lượng
của công nhân phục vụ sẽ
không tính theo đơn giá sản phẩm gián tiếp mà theo lương cấp
bậc của họ.
Chế
độ tiền lương tính theo sản phẩm gián tiếp có tác dụng làm
cho công nhân phục vụ quan tâm hơn đến việc nâng cao năng suất
lao động của công nhân chính mà họ phục vụ.
5.2.3.3
Chế độ tiền lương sản phẩm lũy tiến:
Chế
độ tiền lương này được tính như sau:
Đối
với số sản phẩm được sản xuất ra trong phạm vi định mức
khởi điểm lũy tiến thì được trả theo đơn giá bình thường,
còn số sản phẩm được sản xuất ra vượt mức khởi điểm lũy
tiến được trả theo đơn giá lũy tiến, nghĩa là có nhiều đơn
giá cho những sản phẩm vượt mức khởi điếm
lũy tiến. Nếu vượt mức với tỉ lệ cao thì được tính những
sản phẩm vượt mức bằng những đơn giá cao hơn.
Chế
độ lương này áp dụng cho công nhân sản xuất ở những khâu
quan trọng, lúc sản xuất khẩn trương để bảo đảm tính đồng
bộ, ở những khâu mà năng suất tăng có tính chất quyết định
đối việc hoàn thành chung kế hoạch của xí nghiệp.
Tiền
lương của công nhân làm theo chế độ sản phẩm lũy tiến được
tính theo công thức:
L
= [ Q1 x P ] + [ Q1 – Q0 ].PK
Trong
đó:
L: Tổng tiền lương công nhân được lĩnh.
Q1: Sản lượng thực tế của công nhân sản xuất
ra.
Q0: Định mức sản lượng
P: Đơn giá lương sản phẩm
K: Hệ số tăng đơn giá sản phẩm
Muốn
thực hiện chế độ lương này phải chuẩn bị những điều
kiện sau:
-
Định mức lao động có căn cứ kỹ thuật, đây là vấn đề quan
trọng vì đơn giá sản phẩm sẽ tăng lũy tiến theo tỷ lệ vượt
mức sản lượng.
-
Phải thống kê xác định rõ chất lượng và số lượng sản
phẩm tiền lương của công nhân, mức lũy tiến, mức hạ giá
thấp giá thành và giá trị tiết kiệm được.
-
Phải dự kiến được kết quả kinh tế của chế độ lương tính
theo sản phẩm lũy tiến nhằm xác định mức lũy tiến cao nhất
của đơn giá sản phẩm. Vì khi thực hiện chế độ tiền lương
này lương của công nhân sẽ tăng nhanh hơn sản phẩm làm cho
phần tiền lương trong đơn vị sản phẩm cũng tăng lên. Do đó giá
thành sản phẩm cũng tăng theo, bởi vậy khi áp dụng chế độ lương
này phải tính toán kết quả kinh tế, nâng cao năng suất lao động
làm hạ giá thành sản phẩm.
5.2.3.4
Hình thức lương khoán sản phẩm
Chế
độ lương khoán là chế độ lương sản phẩm khi giao công việc
đã qui định rõ ràng số tiền để hoàn thành một khối lượng
công việc trong một đơn vị thời gian nhất định. Chế độ lương
này áp dụng cho những công việc mà xét thấy giao từng việc chi
tiết không có lợi về mặt kinh tế, bởi vì trong sản xuất có
nhiều công việc mang tính chất tổng hợp không thể giao việc mà
thống kê kinh nghiệm thu kết quả lao động theo
từng đơn vị sản phẩm từng phần riêng biệt của từng công nhân
hoặc từng tổ sản xuất. Như vậy, ngay từ khi nhận việc, công
nhân đã biết ngay được toàn bộ số tiền mà mình được lãnh
sau khi hoàn thành khối lượng công việc giao khoán. Do đó, nếu
đơn vị công tác nhận khoán giảm bớt được số người hoặc rút
ngắn được thời gian hoàn thành khối lượng giao khoán thì tiền
lương tính theo ngày làm việc của mỗi người trong đơn vị sẽ
được tăng lên. Ngược lại nếu kéo dài thời gian hoàn thành
thì tiền lương tính theo mỗi người sẽ ít đi. Do đó chế
độ lương khoán có tác dụng khuyến khích công nhân nâng cao năng
suất lao động,phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn
hoặc giảm bớt số người không cần thiết.
Khi
xây áp dụng chế độ lương khoán cần phải làm tốt công việc thống
kê và định mức lao động cho từng phần việc, tính đơn giá
từng phần việc rồi tổng hợp lại thành khối lượng công
việc, thành đơn giá cho toàn bộ công việc. Cần phải xây dựng
chế độ kiểm tra chất lượng trong quá trình sản xuất, vì trong
thực tế khi áp dụng lương khoán công nhân không chấp hành nghiêm
chỉnh chế độ lao động để xay ra hiện tượng
công nhân tự ý làm thêm giờ để mau chóng hoàn thành công việc
chung nhưng không ghi vào phiếu giao khoán làm cho công việc thống kê
phân tích năng suất lao động của công nhân không chính xác, làm
ảnh hưởng đến chất lượng công việc, ảnh hưởng đến sức
khỏe và các mặt sinh hoạt của công nhân.
5.2.3.5
Hình thức tiền lương theo sản phẩm có thưởng và hình
thức lương khoán có thưởng.
công
suất máy móc, thiết bị... thì được thêm tiền thưởng. Khoản
tiền thưởng này chi trả khi công nhân hoàn thành định mức sản
lượng.
Thực
hiện hình thức tiền lương này phải xác định rõ những chỉ tiêu
và điều kiện thưởng. Tỉ lệ tiền thưởng cũng phải xác định
đúng đắn.
Chế
độ tiền lương tính theo sản phẩm có thưởng sẽ quán triệt đầy
đủ hơn nữa nguyên tắc phân phối lao động, khuyến khích công
nhân chú trọng hơn nữa tới việc cải tiến chất lượng sản
phẩm, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu và hoàn thành
vượt mức nhiệm vụ qui định của đơn vị giao cho.
5.3 Hình thức trả lương
theo thời gian
Tiền
lương theo thời gian là tiền lương thanh toán cho người công nhân
căn cứ vào trình độ kỹ thuật và thời gian công tác của họ.
Nhược
điểm chính của hình thức tiền lương này là không gắn liền
giữa chất lượng và số lượng lao động mà người công nhân đã
tiêu hao trong quá trình sản xuất sản phẩm. Nói cách khác, phần
tiền lương mà người lao động được hưởng không gắn liền
với kết quả lao động mà họ tạo ra. Chính vì lẽ đó, nên hình
thức tiền lương theo thời gian đã không mang lại cho người công
nhân sự quan tâm đầy đủ đối với thành quả lao động của mình,
không tạo điều kiện thuận lợi để uốn nắn kịp thời những
thái độ sai lệch và không khuyến khích họ nghiêm chỉnh thực
hiện chế độ tiết kiệm thời gian trong quá trình công tác.
Thông
thường ở doanh nghiệp, người ta sử dụng hình thức tiền lương
theo thời gian cho những bộ phận mà quá trình sản xuất đã được
tự động hóa, những công việc chưa xây dựng được định mức
lao động, những công việc mà khối lượng hoàn thành không xác
định được hoặc những loại công việc cần thiết phải trả lương
thời gian nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm như công việc
kiểm tra chất lượng sản phẩm, công việc sửa chữa thiết bị
máy móc.
Hình
thức trả lương theo thời gian gồm có hai loại: tiền lương
thời gian giản đơn và tiền lương thời gian có thưởng.
5.4
Trả lương khoán theo nhóm
Trả
lương khoán theo nhóm thường được áp dụng đối với những công
việc có tính chất tổng hợp, gồm nhiều khâu liên kết, nếu
chia thành các chi tiết, bộ phận sẽ không có lợi cho việc bảo
đảm chất lượng thực hiện. Toàn bộ khối lượng công việc
sẽ được giao khoán cho nhóm hoặc đội nhân viên thực hiện.
Tiền lương sẽ được trả cho cho nhóm, đội dựa vào kết quả
cuối cùng của cả nhóm, đội. Hình thức này kích thích tất cả
các nhân viên quan tâm đến kết quả sản phẩm cuối cùng của
cả nhóm. Trong thực tế, hình thức trả lương này thường được
áp dụng trong các dây chuyền lắp ráp, trong ngành xây dựng, sửa
chữa cơ khí, trong nông nghiệp, v.v... Để kích thích các nhân
viên trong nhóm làm việc tích cực, việc phân phối tiền công
giữa các thành viên trong nhóm căn cứ vào các yếu tố sau:
-
Trình độ nhân viên (thông qua hệ số mức lương: Hsi của nhân viên).
-
Thời gian thực tế làm việc của mỗi người (Tti).
-
Mức độ tham gia tích cực, nhiệt tình của mỗi người vào kết
quả thực hiện của nhóm.
Như
vậy, thời gian làm việc quy chuẩn của công nhân sẽ được tính
theo công thức:
Tci
= Hsi
x Tti
x Ki
Tổng
thời gian làm việc quy chuẩn của tất cả công nhân trong nhóm
sẽ được tính theo công thức:
Tổng
thời gian chuẩn bị =
Trong
đó: n là số công nhân trong nhóm.
Tiền
lương của mỗi công nhân sẽ được xác định trên cơ sở số
tiền khoán chung cho cả nhóm và thời gian làm việc chuẩn của
mỗi người , theo công thức:
Ví
dụ, sau khi giám định mức độ hư hỏng của một chiếc máy
tiện, phân xưởng khoán cho ba công nhân thực hiện với tổng số
tiền thù lao là 60.000 đồng. Ba người thợ sửa chữa trong nhóm
sẽ được trả lương tương ứng với các hệ số lương, thời
gian làm việc thực tế và mức độ tích cực của mỗi người
như trong trong bảng 5.8 dưới đây.
Bảng
5.8 Trả lương khoán cho nhóm người lao động
Công
nhân |
Hệ
số lương (Hs) |
Tổng
thời gian thực tế làm việc (giờ) |
Mức
độ tích cực của mỗi người (Ki) |
Thời
gian quy chuẩn (giờ) |
Tiền
công (1000đ) |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
A B C |
1,78 1,62 1,47 |
5 4 5 |
1,2 1,1 1 |
10,68 7,13 7,35 |
25,5 17 17,5 |
Tổng |
|
14 |
|
25,16 |
60.000 |
5.5
Hình thức kích thích theo
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
Kích
thích theo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp được áp dụng
với tất cả mọi nhân viên trong doanh nghiệp. Hình thức này
được áp dụng do những người sử dụng lao động muốn nhân viên
hiểu được mối quan hệ giữa phần thù lao cho các cá nhân, cho
nhóm của họ với kết quả sản xuất cuối cùng của doanh
nghiệp. Hệ thống kích thích theo doanh nghiệp gồm hai loại: thưởng
theo năng suất, hiệu quả nhằm gắn chặt tiền công cho nhân viên
với các yếu tố năng suất, hiệu quả cụ thể như: tiết kiệm
thời gian, vật liệu, giảm chi phí, v.v... và chia lãi (nhằm gắn
chặt phần trả công cho nhân viên với lợi nhuận của doanh
nghiệp).
1.
Hãy nêu khái niệm, mục tiêu, tầm quan trọng của quản
trị nhân sự trong doanh nghiệp ?
2.
Phân tích các thách thức đối với quản trị nhân sự ?
3.
Nêu khái niệm, nội dung và tác dụng của phân tích công
việc ?
4.
Khái niệm các phương
pháp tuyển dụng nhân sự?
5.
Tầm quan trọng của việc đánh giá nhân viên? Các phương pháp
đánh giá nhân viên?
6.
Khái niệm, bản chất và ý nghĩa của tiền lương trong doanh
nghiệp?
7.
Phân biệt các hình thức tiền lương?
8.
Các hình thức phân công , hiệp tác lao động?