CHƯƠNG 8
QUẢN
TRỊ CHẤT LƯỢNG TRONG
DOANH NGHIỆP
I.
KHÁI NIỆM
VỀ SẢN PHẨM, CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM.
II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUAN NIỆM QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG.
III.
ĐẢM
BẢO CHẤT LƯỢNG VÀ CÁC HỆ THỐNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG.
IV.
CÔNG CỤ QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG.
Chương này đề cập đến các
vấn đề sau:
-
Sản phẩm và chất lượng sản phẩm
-
Lịch sử phát triển của các quan niệm quản trị chất lượng
-
Hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp
-
Giới thiệu tóm tắt về bộ tiêu chuẩn I SO-9000
-
Hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam
Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN, tổ chức này đang gấp rút hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN, gọi tắt là AFTA. Điều này có nghĩa, các mặt hàng phải có thuế suất từ 0% đến 5% giá trị xuất cũng như nhập khẩu. Trình độ khoa học kỹ thuật của nhiều nước trong khu vực hơn chúng ta một khoảng xa, nhất là Sigappore. Làm thế nào để trong vòng vài năm tới các sản phẩm của ta sản xuất ra đủ cạnh tranh với các nước trong khối khi mà 2 trong 3 hàng rào bảo hộ mậu dịch không còn xa nữa: quota và thuế suất. Còn chiếc rào cuối cùng là gì? Đó là chất lượng. Vậy chất lượng là gì?
Theo C.Mác: Sản phẩm là kết quả của quá trình lao động dùng để phục vụ cho việc làm thỏa mãn nhu cầu của con người. Trong nền kinh tế thị trường, người ta quan niệm sản phẩm là bất cứ cái gì đó có thể đáp ứng nhu cầu thị trường và đem lại lợi nhuận.
Theo
TCVN 5814: sản phẩm là “kết quả của các hoạt
động hoặc các quá trình” (Quản lý chất lượng và đảm bảo
chất lượng- Thuật ngữ và định nghĩa- TCVN 6814-1994).
Có
nhiều cách phân loại sản phẩm theo những quan điểm khác nhau.
Một trong cách phân loại phổ biến là người ta chia sản phẩm thành
2 nhóm lớn:
-
Nhóm sản phẩm thuần vật chất: là những vật phẩm mang đặc
tính lý hóa nhất định
-
Nhóm sản phẩm phi vật phẩm: đó là các dịch vụ. Dịch
vụ là “kết quả tạo ra do các hoạt động
tiếp xúc giữa người cung ứng và khách hàng và các hoạt
động nội bộ của người cung ứng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng”. (Quản lý
chất lượng và đảm bảo chất lượng- Thuật ngữ và định nghĩa-
TCVN5814-1994). Hoạt động dịch vụ phát triển
theo trình độ phát triển kinh tế và xã hội. Ở các nước phát
triển thu nhập qua dịch vụ có thể đạt tới 60-70% tổng thu
nhập xã hội.
2.1
Một số quan điểm:
- Chất lượng sản phẩm là một phạm trù phức tạp, một
khái niệm mang tính chất tổng hợp về các mặt kinh tế - kỹ
thuật, xã hội.
- Chất lượng sản
phẩm được hình thành trong quá trình nghiên cứu, triển khai và
chuẩn bị sản xuất, được đảm bảo trong quá trình tiến hành
sản xuất và được duy trì
trong quá trình sử dụng.
Thông thường người ta cho rằng sản phẩm có chất lượng
là những sản phẩm hay dịch vụ hảo hạng, đạt được trình độ
của khu vực hay thế giới và đáp ứng được mong đợi của khách
hàng với chí phí có thể chấp nhận được. Nếu quá trình sản
xuất có chi phí không phù hợp với giá bán thì khách hàng sẽ không
chấp nhận giá trị của nó, có nghĩa là giá bán cao hơn giá mà
khách hàng chịu bỏ ra để đổi lấy các đặc tính của sản
phẩm.
Như vậy ta thấy cách nhìn về chất lượng giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng khác nhau nhưng không mâu thuẫn nhau.
Xuất
phát từ những quan điểm khác nhau, hiện có hàng trăm định nghĩa
khác nhau về chất lượng sản phẩm.
2.2
TCVN 5814-1994 trên cơ sở tiêu
chuẩn ISO-9000 đã đưa ra định nghĩa: Chất
lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng
)tạo cho thực thể đó có khả năng thỏa mãn những yêu cầu đã
nêu ra hoặc tiềm ẩn. (Quản lý chất lượng và đảm bảo
chất lượng- Thuật ngữ và định nghĩa-TCVN5814-1994). Như vậy,
“khả năng thỏa mãn nhu cầu” là chỉ tiêu cơ bản nhất để
đánh giá chất lượng sản phẩm.
Thông thường, người ta rất dễ chấp nhận ý tưởng cho
rằng cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm là phải tập
trung cải tiến và nâng cao đặc tính kỹ thuật, sự hoàn thiện
của sản phẩm. Quan niệm này sẽ dẫn đến xu hướng đồng hóa
việc đầu tư vào đổi mới dây chuyền sản xuất, công nghệ
sản xuất là nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong nhiều trường
hợp, quan niệm này tỏ ra đúng đắn, nhất là khi sản phẩm đang
được sản xuất ra với công nghệ quá lạc hậu. Tuy nhiên, chất
lượng đã vượt ra khỏi phạm vi của sản phẩm. Doanh nghiệp
sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng và nhờ những sản
phẩm tốt mà được khách hàng tín nhiệm. Song muốn thật sự
được người tiêu dùng tín nhiệm, thì cùng với sản phẩm tốt,
doanh nghiệp còn phải thực hiện một loạt dịch vụ cần thiết
khác như: bảo hành, hướng dẫn sử dụng, bảo dưỡng kỹ thuật
định kỳ và các dịch vụ phụ trợ khác.
Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp không chỉ bán sản phẩm
tốt mà còn phải giúp khách hàng giải quyết các vấn đề nẩy
sinh trong khi sử dụng. Ví dụ khi những sản phẩm đầu tiên của
Nhật Bản bán ra thị trường nước ngoài, khách hàng không thể
đọc được các bản hướng dẫn sử dụng vì nó viết bằng
tiếng Nhật, nhưng sau đó họ đã rút kinh nghiệm và hàng hóa
của Nhật ngày càng được chấp nhận nhiều hơn ở nước ngoài.
Chất lượng sản phẩm phải thể hiện thông qua các yếu
tố sau:
- Sự hoàn thiện của sản phẩm: đây là yếu tố để giúp
chúng ta phân biệt sản phẩm nầy với sản phẩm khác. thường
thể hiện thông qua các tiêu chuẩn mà nó đạt được. Đây cũng
chính là điều tối thiểu mà mọi doanh nghiệp phải cung cấp cho
khách hàng thông qua sản phẩm của mình.
- Giá cả: thể hiện
chi phí để sản xuất (mua) sản phẩm và chi phí để khai thác và
sử dụng nó. Người ta thường gọi đây là giá để thỏa mãn
nhu cầu.
- Sự kịp thời, thể hiện cả
về chất lượng và thời gian.
- Phù hợp với các điều kiện tiêu dùng cụ thể: sản
phẩm chỉ có thể được coi là chất lượng khi phù hợp với điều
kiện tiêu dùng cụ thể. Doanh nghiệp phải đặc biệt chú ý điều
nầy khi tung sản phẩm vào các thị trường khác nhau để đảm
bảo thành công trong kinh doanh.
Trong thực tế sản xuất kinh doanh, nếu không chú ý đầy đủ
đến các yếu tố trên sẽ dẫn đến thiệt hại không nhỏ.
II.
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUAN NIỆM QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG. |
1. Trong giai đoạn đầu của cách mạng khoa học kỹ thuật,
khi sản phẩm hàng hóa chưa phát triển, sản xuất chủ yếu theo
kiểu thủ công. Người sản xuất biết rõ khách hàng của mình là
ai, nhu cầu của họ là gì và sản xuất ra các sản phẩm đáp
ứng nhu cầu của họ, và xem đây là điều đương nhiên, không gì
đáng bàn cải.
2. Khi công nghiệp phát triển, lượng hàng hóa sản xuất ra
ngày càng nhiều và sản xuất được tổ chức theo nhiều công đoạn
khác nhau theo kiểu dây chuyền, người trực tiếp sản xuất không
biết được người tiêu dùng sản phẩm của họ là ai và nên
rất dễ xảy ra tư tưởng làm dối .Lúc này, vai trò của các cán
bộ chuyên trách về kiểm soát chất lượng trở nên quan trọng và
lực lượng này ngày càng phát triển với mục tiêu là kiểm soát
chặt chẽ sản phẩm làm ra để đảm bảo không cho lọt ra thị
trường những sản phẩm kém chất lượng.
Tuy nhiên, nhiều thực nghiệm đã chứng minh rằng không thể
nào kiểm tra hết được các khuyết tật của sản phẩm. Dù cho có
áp dụng công cụ kiểm tra gì mà ý thức con người không quyết tâm
thì vẫn không thể ngăn chặn từ đầu sai lỗi phát sinh và lọt
qua kiểm tra. Giải pháp KCS xem ra không đạt hiệu quả như mong đợi
và tạo nên một sự lãng phí khá lớn. Mặt khác, không thể nào
có được sản phẩm tốt ở khâu sản xuất nếu người ta không
có được các thiết kế sản phẩm có chất lượng. Điều này đòi
hỏi việc quản trị chất lượng phải mở rộng ra và bao gồm
cả khâu thiết kế.
3. Đây là một bước tiến rất đáng kể, song vẫn chưa đầy
đủ. Trong thực tế thị trường, có 2 yếu tố mà người mua hàng
cân nhắc trước khi mua:
- Giá cả: gồm cả giá khi mua và giá sử dụng.
- Chất lượng: muốn biết được mức chất lượng của
sản phẩm bày bán, người mua thường so sánh với sản phẩm cùng
loại đã biết, và thường hay hỏi người bán về mẫu mã, tính
năng. Ở đây cần sự tín nhiệm của người mua đối với hãng
sản xuất ra sản phẩm. Sự tín nhiệm này, nhiều khi người mua
đặt vào các nhà phân phối, người bán hàng... vì họ chưa biết
người sản xuất là ai. Một nhà phân phối làm ăn ổn định, buôn
bán ngay thẳng và phục vụ tốt dễ gây tín nghiệm cho khách hàng,
nhất là đối với những sản phẩm dịch vụ mới. Thực tế này
đòi hỏi việc quản trị chất lượng phải một lần nữa mở
rộng ra và bao gồm cả nhà phân phối.
4. Muốn làm chất lượng, nếu chỉ có các biện pháp trong
doanh nghiệp thôi thì chưa đủ. Người ta thấy, nếu không giải
quyết vấn đề đảm bảo chất lượng nguyên liệu nhập vào, không
quan tâm đến mạng lưới phân phối bán ra thì không thể nâng cao
chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Do vậy, trong quản lý chất
lượng người ta tìm cách tạo được quan hệ tin cậy, lâu dài
với người cung ứng nguyên vật liệu và cả người phân phối bán
ra.
Như vậy, từ chỗ quản trị chất lượng trong doanh nghiệp
đồng nghĩa với KCS đã mở rộng ra quản trị chất lượng cả
đời sống sản phẩm từ khâu thiết kế đến cả quá trình sản
xuất và quá trình phân phối sản phẩm. Nếu trong chuỗi trên
xảy ra trục trặc một khâu nào đó sẽ ảnh hưởng ngay đến
chất lượng sản phẩm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nhà sản xuất muốn tạo được sự tín nhiệm đối với khách hàng không phải chỉ thông qua lời giới thiệu của người bán, những câu chuyện, lời lẽ quảng cáo trên tivi hay pano, áp phích mà phải được chứng minh bằng một hệ thống quản lý chất lượng trong doanh nghiệp. Vì thế, các hệ thống quản lý chất lượng khác nhau ra đời, tạo cơ sở cho việc đảm bảo chất lượng, giúp cho doanh nghiệp làm ăn, có lãi và phát triển một cách bền vững.
Tóm lại, nhận thức chất lượng là một quá trình phát triển từ thấp đến cao từ kiểm soát chất lượng (Quality control) đến quản trị chất lượng (Quality Management), kiểm soát chất lượng toàn diện (Total quality control) và quản trị chất lượng toàn diện (Total quality management).
Đảm bảo chất lượng là cốt lõi của quản trị chất lượng
, bao gồm một đảm bảo sao cho người mua hàng có thể mua một
sản phẩm, dịch vụ với lòng tin và sự thoải mái là có thể
sử dụng một thời gian dài. Đảm bảo chất lượng giống như
một lời hứa hoặc hợp đồng với khách hàng về chất lượng.
Bất kỳ công ty nào cũng cần áp dụng chính sách đảm bảo
chất lượng nhằm đoán chắc với khách hàng
rằng trước khi mua, trong khi mua và giai đoạn nào đó sau khi mua,
sản phẩm, dịch vụ phải có đủ độ tin cậy làm thỏa mãn khách
hàng và chiếm được lòng tin của họ. Các doanh nghiệp cần xây
dựng chính sách đảm bảo chất lượng sao cho khách hàng tin vào hàng
hóa của công ty mình hoặc xa hơn nữa là tin tưởng vào chất lượng
của chính bản thân công ty, như vậy khách hàng sẽ yên tâm khi
mua sản phẩm, dịch vụ mới.
Theo ISO9000, "Đảm bảo
chất lượng là toàn bộ hoạt động có kế hoạch và hệ thống
được tiến hành trong hệ thống chất lượng được chứng minh là
đủ mức cần thiết để tạo tin tưởng thỏa đáng rằng thực
thể (đối tượng) sẽ thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu chất lượng.
Đảm bảo chất lượng bao gồm cả đảm bảo chất lượng trong
nội bộ lẫn đảm bảo chất lượng với bên ngoài".
Đảm bảo chất lượng bao gồm mọi việc từ lập kế
hoạch sản phẩm cho đến khi làm ra nó, bảo dưỡng, sửa chữa và
tiêu dùng. Vì thế các hoạt động đảm bảo chất lượng cần
được xác định rõ ràng, điều gì cần làm ở mỗi giai đoạn
để đảm bảo được chất lượng trong suốt đời sống của
sản phẩm.
Đảm bảo chất lượng không những bao gồm mọi hoạt động
về kiểm tra chất lượng bên trong các phòng ban, mà còn giữa các
phòng ban với nhau. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi
mới cơ cấu tổ chức từ quản trị theo chức năng sang quản
trị theo chức năng chéo nhằm hướng mọi nỗ lực của các thành
viên vào việc thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp là
thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng và thu được
lợi nhuận.
2.1
Hệ
thống ISO 9000
Tiêu chuẩn ISO9000 do ủy ban ISO/TC176 soạn thảo trong 5 năm
ấn hành đầu tiên vào năm 1987, chỉnh lý lần 1 vào năm 1994,
lần 2 vào tháng 12 năm 2000.
Hệ thống này ra đời xuất phát từ yêu cầu khách quan
của thực tiễn kinh doanh trên thế giới. Đảm bảo chất lượng
phải thể hiện được những hệ thống quản lý chất lượng đó
và chứng tỏ rằng các chứng cứ cụ thể chất lượng đã đạt
được của sản phẩm. Mặt khác, khái niệm đảm bảo chất lượng
không giống nhau ở các nước, vì vậy ISO ban hành tiêu chuẩn
ISO9000 để đưa ra yêu cầu chung nhất cho các nước.
Các tiêu chuẩn trong bộ ISO9000 mô tả là các yếu tố mà
một hệ thống chất lượng nên có nhưng không mô tả cách thức
mà một tổ chức cụ thể thực hiện các yếu tố này, ISO9000 không nhằm
mục tiêu đồng nhất hóa các hệ thống chất lượng, vì mỗi
hệ thống quản lý của một tổ chức bị chi phối bởi mục đích,
sản phẩm và thực tiễn cụ thể của tổ chức đó. Do vậy, hệ
thống chất lượng cũng rất khác nhau giữa tổ chức này với
tổ chức kia.
ISO9000 đề cập đến các lĩnh vực chủ yếu trong quản lý
chất lượng: chính sách và chỉ đạo về chất lượng, nhu cầu
thị trường, thiết kế và triển khai sản phẩm, cung ứng, kiểm
soát thị trường, bao gói, phân phối , dịch vụ sau khi bán, xem xét
đánh giá nội bộ, kiểm soát tài liệu, đào tạo... ISO9000 là
tập hợp các kinh nghiệm quản lý chất lượng tốt nhất đã được
thực hiện trong nhiều quốc gia.
Trong môi trường kinh doanh ngày nay, giấy chứng nhận ISO9000
được xem như là giấy thông hành để xâm nhập vào thị trường
thế giới. Tuy rằng việc chấp nhận và áp dụng tiêu chuẩn
ISO9000 là tự nguyện song dưới áp lực của thị trường, các
doanh nghiệp nhận thức được rằng việc áp dụng tiêu chuẩn này
là lẽ sống còn của mỗi doanh nghiệp.
Có 3
lý do chính mà các doanh nghiệp đưa ra khi chấp nhận tiêu
chuẩn ISO9000 như sau:
Thứ nhất: Do
yêu cầu khách hàng hay yêu cầu cạnh tranh của thị trường, cần
phải thiết lập hệ thống đảm bảo chất lượng theo ISO9000. Tuy
nhiên, ISO9000 không phải là vũ khí dễ dàng trang bị để chiến
đấu trên thị trường, cũng không phải là sổ tay các qui định
kỹ thuật có thể mua được ở hiệu sách. Đó phải là tài
liệu mô tả rõ rệt chính doanh nghiệp đang làm ăn ra sao, có đáng
tín nhiệm không, mà lại do chính doanh nghiệp viết ra và được
người thứ ba xác nhận. Nó phải nêu lên được cách làm, cách
kiểm tra, cách giải quyết các vấn đề chất lượng sản phẩm làm
ra, những ai cung cấp nguyên vật liệu cho doanh nghiệp, họ làm ăn
ra sao, có đáng tin cậy không. Tất cả các điều trên phải được
chuyên gia đánh giá kiểm tra xem thực tế có đúng như vậy không,
đúng như thế nào?
Thứ hai: Chính
doanh nghiệp thấy cần phải làm theo chiến lược chất lượng
của mình, vì rằng không
thể kiểm tra hết được mà phải có sự tin cậy, đảm bảo có
cơ sở ngay từ đầu bằng các hệ thống. Và chính qua việc đảm
bảo đó, người quản lý mới tin chắc vào các nhân viên của mình
ở các hệ thống. Đảm bảo chất lượng bằng ISO9000 làm nhẹ công
việc quản lý chất lượng để tập trung vào nâng cao chất lượng.
Thứ
ba: Theo sự
bắt buộc của luật lệ mỗi nước, ví dụ luật về an toàn điện,
luật an toàn thực phẩm, luật về xây dựng... nếu không theo
luật thì không được, mà cách theo tốt nhất là xây dựng hệ
thống quản lý chất lượng để đảm bảo chất lượng theo các
luật lệ đó.
Bộ tiêu
chuẩn ISO9000:1994 gồm 24 tiêu
chuẩn khác nhau được chia thành 5 nhóm lớn như sau:
- Các yêu cầu của hệ thống chất lượng: gồm các tiêu
chuẩn ISO9001, ISO9002 và ISO9003.
- Các tiêu chuẩn hướng
dẫn về đảm bảo chất lượng ISO9000-1, ISO9000-2, ISO9000-3,
ISO9000-4.
- Các tiêu chuẩn hướng
dẫn về quản lý chất lượng ISO9004-1,ISO9004-2
ISO9004 -3, ISO9004 -4, ISO9004 -5, ISO9004 -6, ISO9004 -7.
- Các tiêu chuẩn đánh
giá hệ thống chất lượng ISO10011-1, ISO10011-2,
ISO10011-3
Các tiêu chuẩn hỗ trợ ISO8402, ISO10012-1, ISO10012-2, ISO010013,
ISO10014, ISO10015, ISO10016. Quá
trình toàn cầu hóa với những thay đổi nhanh chóng về công nghệ
và thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có khả năng
cạnh tranh quốc tế, ngay cả khi mục tiêu thị trường của họ là
nội địa. Sự ra đời của phiên bản 2000 của tiêu chuẩn ISO
9000 không phải là chuyện đặc biệt, bởi lẽ, trên thực tế,
tất cả các tiêu chuẩn của ISO đều
được xem xét lại sau 5 năm áp dụng để đảm bảo rằng chúng
vẫn còn thích hợp với trình độ phát triển hiện tại. Thực
tế cho thấy việc đầu tư cho hệ thống quản lý chất lượng đã
mang lại hiệu quả thực sự về mặt tổ chức, điều hành, thương
mại cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm , dịch vụ.
Trong quá trình áp dụng, người ta cũng nhận ra rằng cấu trúc và
yêu cầu cụ thể của các tiêu chuẩn ISO 9001, ISO 9002, ISO 9003:1994
chỉ thuận lợi cho việc quản lý chất lượng của các đơn vị
sản xuất , khó áp dụng cho các tổ chức dịch
vụ , khó gắn nó với hệ thống quản lý chung, với hệ thống
quản lý môi trường, nếu có.
Việc soát xét và ban hành phiên bản ISO
9000:2000 sẽ đem lại nhiều lợi ích, đồng thời là những
thách thức mới cho các doanh nghiệp , tổ chức, các chuyên gia, nhà
quản lý.....
Sơ đồ 8.5: Qui trình cấp giấy chứng nhận ISO9000
Tiêu chuẩn ISO 9000:2000 bàn về
những khái niệm và định nghĩa cơ bản thay thế cho tiêu chuẩn các
thuật ngữ và định nghĩa (ISO 8402) và tất cả các tiêu chuẩn
ISO hướng dẫn cho từng ngành cụ thể.
Tiêu chuẩn ISO 9001:2000 sẽ thay
thế cho các tiêu chuẩn ISO 9001. ISO 9002. và ISO 9003:1994 đưa ra các yêu cầu
trong hệ thống quản lý chất lượng. là tiêu chí cho việc xây
dựng, áp dụng và đánh giá hệ thống quản lý chất lượng.
Vai
trò của ISO 9001:2000 trong các bộ tiêu chuẩn không hề thay
đổi nhưng một số nội dung được đưa thêm và đặc biệt cấu
trúc của tiêu chuẩn đã thay đổi hoàn toàn. Tiêu chuẩn cũ gồm 20
điều khoản riêng biệt không thể hiện rõ và dễ hiểu
cho người sử dụng chúng. Tiêu chuẩn mới gồm 8
điều khoản với nội dung dễ hiểu và logic hơn. Trong đó 4 điều khoản cuối đưa ra các yêu
cầu của hệ thống quản lý chất lượng cần được xây dựng.
áp dụng và đánh giá.
Tiêu chuẩn ISO 9004:2000 là một công
cụ hướng dẫn cho các doanh nghiệp muốn cải tiến và hoàn
thiện hơn nữa hệ thống chất lượng của mình sau khi đã thực
hiện ISO
9001:2000. Tiêu chuẩn này không phải là các yêu cầu kỹ
thuật; do đó, không thể áp dụng để được đăng ký hay đánh
giá chứng nhận và đặc biệt không phải là tiêu chuẩn diễn
giải ISO 9001:2000.
Tiêu chuẩn ISO 19011:2000 nhằm hướng dẫn đánh giá cho hệ
thống quản lý chất lượng cũng như hệ thống
quản lý môi trường và sẽ thay thế tiêu chuẩn cũ ISO 10011:1994.
Trước đây. doanh nghiệp có thể lựa chọn giữa ISO 9001;
ISO 9002; ISO 9003 tùy thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh và
nhu cầu quản lý của họ. Nhưng đối với phiên bản mới, doanh
nghiệp chỉ có một
lựa chọn ISO 9001:2000; trong đó doanh nghiệp có thể loại
trừ bớt một số điều khoản không áp dụng cho hoạt động
của họ. Việc miễn trừ đó phải đảm bảo không ảnh hưởng
đến năng lực, trách nhiệm và khả năng cung cấp sản phẩm
/dịch vụ thỏa mãn nhu cầu khách hàng cũng như các yêu cầu khác
về luật định. Các điểm miễn trừ chỉ được phép nằm trong
điều khoản 7 liên quan đến quá trình sản xuất của doanh
nghiệp.
So với phiên bản cũ, phiên bản mới có những thay
đổi chính sau đây:
- Khái niệm sản phẩm và/hay dịch vụ được định nghĩa
rõ ràng. Trong phiên bản cũ khái niệm này chỉ được hiểu
ngầm.
- Đưa vào khái niệm tiếp cận quá trình và được coi là một trong những nguyên tắc cơ
bản của quản lý chất lượng. Tất cả hoạt động chuyển đổi
yếu tố đầu vào thành yếu tố đầu ra được coi là một quá
trình. Để hoạt động có hiệu quả. doanh nghiệp phải biết
nhận dạng và điều hành nhiều quá trình liên kết nhau.
- Số lượng qui trình yêu
cầu giảm còn 6. bao gồm:
+ Nắm vững công tác tài
liệu
+ Nắm vững việc lưu
trữ hồ sơ, văn thư.
+ Công tác đánh giá
nội bộ.
+ Nắm vững những điểm
không phù hợp.
+ Hoạt động khắc
phục
+ Hoạt động
phòng ngừa.
- Chú trọng đến khách hàng. Tiêu chuẩn nầy hướng
hoàn toàn vào khách hàng. Mục tiêu của nó là định hướng hoạt
động của doanh nghiệp vào khách hàng và
nhắm tới việc thỏa mãn khách hàng.
- Thích ứng tốt hơn với những dịch vụ. Tiêu
chuẩn được viết lại để phù hợp hơn với việc áp dụng
trong lĩnh vực dịch vụ.
- Thay thế hoàn toàn cho ISO 9001. ISO 9002 và ISO
9003:1994.
Tương thích với ISO 14000.
ISO 9001:2000 đã được dự kiến để tương thích với
những hệ thống quản lý
chất lượng khác được công nhận trên bình diện quốc tế. Nó
cũng phối hợp với ISO 14001 nhằm cải thiện sự tương thích
giữa 2 tiêu chuẩn này tạo dễ dàng cho các doanh nghiệp.
- Tính dễ đọc: nội dung của tiêu chuẩn đã được đơn
giản hóa, dễ đọc nhằm tạo sự dễ dàng cho người sử dụng.
- Cuối cùng. tiêu chuẩn này nhấn mạnh đến việc
không ngừng hoàn thiện.
Tổ chức UNIDO có làm một cuộc điều tra đối với các
doanh nghiệp ở châu Âu, Á Phi và Mỹ La Tinh thì thấy các lý do mà
doanh nghiệp đưa ra để áp dụng hệ thống ISO9000 theo thứ tự như
sau:
* Đáp ứng được yêu
cầu của khách hàng ngoài nước.
* Xóa bỏ các rào cản
trong thương mại.
* Gia tăng thị phần.
* Cải thiện hiệu năng
nội bộ.
* Nhiều đối thủ
cạnh tranh đã áp dụng.
* Kết hợp được với
TQM (quản lý chất lượng toàn bộ)
* Đáp ứng được yêu
cầu của khách hàng trong nước.
* Nâng cao tinh thần làm
việc và tình cảm của nhân viên đối với công ty.
* Củng cố uy tín lãnh
đạo.
* Chứng tỏ sự tuân
thủ pháp luật của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nào được bên thứ 3 công nhận đạt tiêu
chuẩn ISO9000 sẽ thu được những lợi ích sau:
- Bên mua hàng hóa dịch vụ hoặc
bỏ thầu miễn giảm việc thử nghiệm lại sản phẩm.
- Xuất khẩu và trúng thầu dễ dàng đối với đối tác nước
ngoài.
- Có một hệ thống tin cậy trong việc bán hàng giữa các
doanh nghiệp cũng như giữa các quốc gia.
- Dễ được các thị trường khó tính chấp nhận, đặc
biệt cho các sản phấm có liên quan đến sức khỏe, an ninh và môi
trường.
Tóm lại muốn hội nhập vào thị trường thế giới, các
doanh nghiệp phải có ngôn ngữ tương đồng với nhau và ISO9000 là
một trong những ngôn ngữ đó. Hiện nay, vẫn còn không ít người
ngộ nhận ISO9000 là một loại tiêu chuẩn chất lượng của sản
phẩm. Không phải thế, ISO9000 là một hệ thống quản lý chất lượng
áp dụng cho đơn vị để cải tiến công tác quản trị cho phù
hợp, trên cơ sở đó đảm bảo việc thực hiện cam kết chất lượng
sản phẩm, dịch vụ đối với khách hàng.
Một ngộ nhận khác, cũng không nhỏ, là cho rằng áp dụng
ISO 9000 doanh nghiệp cần phải đổi mới máy móc thiết bị và công
nghệ, thật ra đôi khi cũng cần thiết nhưng không phải tất cả.
ISO9000 tác động vào hệ thống quản trị, có nghĩa là tác động
đến con người và thông qua con người. Và như thế, một lần
nữa cho thấy rằng ISO9000 không phải là vật bảo chứng cho sản
phẩm chất lượng cao - mà nó chỉ bảo đảm sản phẩm được
sản xuất ra đúng với mức chất lượng đã xác định trong mọi
lô hàng.
Một nguyên tắc ngắn gọn của ISO 9000 là "viết ra
những công việc mình làm và chỉ làm những gì đã viết", các
doanh nghiệp có trình độ công nghệ, máy móc thiết bị khác nhau
để có thể áp dụng hệ thống ISO9000, mỗi doanh nghiệp phải rà
soát, thiết lập các văn bản ghi rõ chính sách chất lượng, qui
trình sản xuất, hướng dẫn công việc... và đảm bảo mọi người
thực hiện đúng những điều đã được qui định không được làm
tùy tiện, cảm tính, tùy hứng hoặc theo trí nhớ mỗi người.
Việt Nam biết đến ISO 9000 từ những năm 90 song thời gian
đầu ít người quan tâm về nội dung ra sao, áp dụng thế nào.
kể cả người làm công tác quản lý lẫn các doanh nhân. Dần
dần, dưới tác động của quá trình đổi mới kinh tế, sức ép
của thị trường đang mở cửa, sự năng động của doanh nghiệp
trong điều kiện cạnh tranh và nỗ lực của cơ quan quản lý đã
thúc đẩy quá trình xây dựng và áp dụng ISO
9000 trong doanh nghiệp. Thời gian đầu, do lợi thế về nhiều
mặt, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài đã đi đầu trong hoạt
động nầy. Về sau, các doanh nghiệp khác, do chịu sức ép của
thị trường, đồng thời nhận thức được sự cần thiết và
lợi ích của ISO 9000 nên đã tích cực vào cuộc. Việc xây dựng
và áp dụng ISO 9000 đã được triển khai ở 12
lĩnh vực sản xuất (thực phẩm đồ uống, dệt sợi may, giấy,
than và hóa dầu, hóa chất, dược phẩm, cao su-nhựa, vật liệu xây
dựng, kim loại, máy và thiết bị, thiết bị điện và quang học,
các sản phẩm chưa được xếp loại khác); 6 lĩnh vực kinh doanh
dịch vụ ( xây dựng, thương mại, vận tải, thông tin, dịch vụ
kỹ thuật và các dịch vụ khác chưa xếp loại)và gần đây đã
phát triển sang lĩnh vực quản lý hành chính như là biện pháp
quan trọng để thực hiện mục tiêu cải cách hành chính.
Tuy nhiên. cần lưu ý rằng. ISO 9000 không phải là cây đũa
thần giải quyết được mọi vấn đề trong sản xuất kinh doanh.
Tạo được nề nếp tổ chức hoạt động theo các tiêu chí của
ISO 9000 là hết sức cần thiết, song duy trì và phát triển nó
mới thực sự quan trọng. Một trong những yêu cầu cơ bản của ISO
9000:2000 chính là đòi hỏi có sự cải tiến liên tục hệ
thống chất lượng của mỗi doanh nghiệp.
Với xu thế hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. các doanh nghiệp đứng trước những cơ hội to lớn và
những thách thức gay gắt. Để cạnh tranh thắng lợi. doanh
nghiệp không còn cách nào khác là phải nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm. Năng suất và chất lượng là hai mặt
của vấn đề cạnh tranh.Cải tiến chất lượng chính là con
đương ngắn nhất và bền vững nhất dẫn đến việc nâng cao năng
suất. Cùng với việc đầu tư chiều sâu về kỹ thuật, công
nghệ; mở rộng sản xuất ; việc áp dụng thành công các thành
tựu tiên tiến của khoa học quản lý trên cơ sở các tiêu chí
của ISO 9000 sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam rút ngắn dần
khoảng cách với khu vực và thế giới.
2.2 Hệ
thống TQM.
Hệ thống TQM là một hệ thống quản lý chất lượng toàn
diện. Xuất phát từ kinh nghiệm thực tiễn, người ta đúc kết
thành một kỹ thuật hướng dẫn cách thức làm sao để cải
tiến trong công việc hàng ngày và cả trong việc thực hiện kế
hoạch trung và dài hạn.
Theo Histoshi Kume: "TQM là một dụng pháp quản trị đưa
đến thành công, tạo thuận
lợi cho sự tăng trưởng bền vững của một tổ chức (một doanh
nghiệp) thông qua việc huy động hết tất cả tâm trí của tất
cả các thành viên nhằm tạo ra chất lượng một cách kinh tế
theo yêu cầu khách hàng.
Theo ISO
9000: "TQM là cách quản trị một tổ chức (một doanh
nghiệp) tập trung vào chất lượng, dựa vào sự tham gia của các
thành viên của nó nhằm đạt được sự thành công lâu dài nhờ
vào việc thỏa mãn khách hàng và đem lại lợi ích cho các thành
viên của tổ chức đó và cho xã hội"
Mục tiêu chính của TQM là làm sao cho sản phẩm và dịch
vụ được thực hiện với chất lượng tốt đồng thời
phải giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động rút
ngắn thời gian giao hàng, giao hàng đúng lúc... Điều này cũng có
nghĩa là TQM hướng tới đảm bảo 3 chữ P của chất lượng một
cách tốt nhất thông qua nỗ lực của tất cả mọi thành viên
trong tổ chức.
Nói chung, TQM trình bày một tập hợp các nguyên tắc nhằm nâng
cao chất lượng bằng cách động viên toàn
bộ các thành viên không phân biệt trực tiếp hay gián tiếp
sản xuất, công nhân, cán bộ hay lãnh đạo các cấp trong doanh
nghiệp. Các nguyên tắc này có thể tóm lược như sau:
- Chính khách hàng mới là người định ra chất lượng và
nhu cầu của khách hàng là tối thượng
- Lãnh đạo cao nhất trong doanh nghiệp phải làm người lãnh
đạo thực hiện chất lượng
- Chất lượng là vấn đề chiến lược phải được đặt
ưu tiên trên hàng đầu khi lập kế hoạch
- Chất lượng là trách nhiệm của mọi thành viên ở mọi
cấp bậc trong doanh nghiệp mọi người phải đồng tâm hiệp lực
để giải quyết vấn đề chất lượng.
- Các chức năng trong doanh nghiệp phải tập trung vào việc
cải thiện liên tục chất lượng để hoàn thành mục tiêu chiến
lược của doanh nghiệp.
Việc giải quyết các
trục trặc và nâng cao liên tục chất lượng phải dựa vào việc
sử dụng phương pháp kiểm soát chất lượng bằng thống kê (SQC)
vào áp dụng vòng tròn Deming
²
Giáo dục đào tạo là nền tảng cho việc cải tiến chất lượng
liên tục...
2.3
Hệ thống chất lượng
Q.Base.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của việc áp dụng bộ
tiêu chuẩn ISO9000, một vấn đề nảy sinh là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ gặp khá nhiều khó khăn trong việc áp dụng tiêu
chuẩn này, đặc biệt là về mặt chi phí.
Telare - tổ chức chứng nhận chất lượng hàng đầu của
New Zealand, sau khi nghiên cứu thị trường đã đưa ra hệ thống
quản lý chất lượng vẫn sử dụng các nguyên tắc cơ bản của
tiêu chuẩn ISO9000 (chủ yếu là ISO9002 và ISO9003) nhưng đơn giản
và dễ áp dụng hơn. Hệ thống này, bao gồm những yêu cầu cơ
bản mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải có để đảm
bảo giữ được lòng tin đối với khách hàng về chất lượng
sản phẩm hoặc về dịch vụ, gọi tắt là Q.Base.
Trong một số vấn đề, hệ thống Q.Base không đi sâu như
ISO9000, mà đòi hỏi những yêu cầu tối thiểu cần có, từng
doanh nghiệp có thể phát triển từ hệ thống Q.Base lên cho phù
hợp với yêu cầu của ISO9000. Hệ thống Q.Base rất linh hoạt,
từng doanh nghiệp có thể vận dụng theo điều kiện cụ thể
của mình và là công cụ rất cần thiết cho lãnh đạo các doanh
nghiệp nhỏ và vừa không chỉ trong công tác quản lý chất lượng.
Hệ thống Q.Base là tập hợp các kinh nghiệm quản lý chất
lượng đã được thực thi tại New Zealand và một số quốc gia khác
như Đanmạch, Australia, Canada, Thụy Điển. Q.Base đề cập đến các
lĩnh vực chủ yếu trong quản trị chất lượng, chính sách chỉ
đạo về chất lượng, xem xét hợp đồng với khách hàng, quá trình
cung ứng, kiểm soát nguyên vật liệu, kiểm soát quá trình, kiểm
soát thành phẩm, xem xét đánh giá nội bộ, kiểm soát tài liệu,
đào tạo, cải tiến chất lượng.
Việt Nam đã được Telare cho phép sử dụng hệ thống Q.Base
từ tháng 11/95 và ngày 7/6/96, ban lãnh đạo 2 cơ quan Telara New
Zealand và Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam
đã chính thức ký văn bản về việc này. Ngoài ra, Telare cũng đang
xem xét cho phép Philippines, Inđonesia và Bruney sử dụng tiêu chuẩn
Q.Base.
Hệ thống Q.Base tuy chưa phải là tiêu chuẩn quốc tế như
ISO9000, nhưng đang được thừa nhận rộng rãi làm chuẩn mực để
chứng nhận các hệ thống đảm bảo chất lượng. Q.Base sử
dụng chính các nguyên tắc của ISO9000 nhưng đơn giản và dễ áp
dụng hơn, đặc biệt phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
đang bước đầu hình thành hệ thống quản lý chất lượng.
Q.Base có đầy đủ những yếu tố cơ bản của một hệ
thống chất lượng, giúp doanh nghiệp kiểm soát được các lĩnh
vực chủ chốt trong hoạt động của mình. Nó tập trung vào việc
phân công trách nhiệm và giao quyền hạn, khiến cho mọi thành viên
chịu trách nhiệm về hành động của mình.
Sau khi đã thực hiện các yêu cầu của hệ thống Q.Base,
doanh nghiệp có thể thêm các qui định mà doanh nghiệp cần thiết
và có thể mở rộng dần dần đến thỏa mãn mọi yêu cầu của
ISO9000. Hệ thống Q.Base rất linh hoạt và không mâu thuẫn với các
hệ thống quản trị chất lượng khác như ISO9000 hay TQM và rất có
ích cho những doanh nghiệp cung ứng cho các công ty lớn hơn đã có
giấy công nhận ISO9000.
Một cách tổng quát, hệ thống Q.Base được áp dụng trong các
trường hợp:
·
Hướng
dẫn để quản lý chất lượng trong công ty, nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của mình, thực hiện các yêu cầu đối với chất lượng
sản phẩm một cách tiết kiệm nhất.
·
Theo hợp
đồng giữa công ty và khách hàng (bên thứ nhất và bên thứ hai)
khi khách hàng đòi hỏi. Doanh nghiệp phải áp dụng mô hình đảm
bảo chất lượng theo Q.Base để có thể cung cấp sản phẩm đáp
ứng.
·
Chứng
nhận của bên thứ 3: Hệ thống đảm bảo chất lượng của công
ty được tổ chức chứng nhận đánh giá và cấp chính thức.
2.4
Giải thưởng chất lượng
của Việt Nam.
Để khuyến khích các tổ chức sản xuất kinh doanh, dịch
vụ, các tổ chức nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ nâng
cao chất lượng hoạt động, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng
cao, bộ khoa học công nghệ và môi trường đã quyết định đặt
"giải thưởng chất lượng" để xét tặng hàng năm cho các
đơn vị có nhiều thành tích về chất lượng.
Giải thưởng chất lượng Việt Nam được thành lập nhằm
thúc đẩy mọi tổ chức nâng cao tính cạnh tranh bằng cách so sánh
với những tiêu chuẩn được công nhận trên phạm vi quốc tế.
Giải thưởng chất lượng Việt Nam bao gồm 7 tiêu chuẩn
được tham khảo từ các hệ thống chất lượng quốc tế nhằm
khuyến khích các tổ chức tăng cường việc áp dụng TQM và tiên
đến được cấp giấy chứng nhận ISO9000.
Bảy tiêu chuẩn về chất lượng Việt Nam gồm:
1. Vai trò của lãnh đạo
90 điểm
2. Thông tin và phân tích dữ liệu
75 điểm
3. Định hướng chiến lược
55 điểm
4. Phát triển và quản lý nguồn nhân lực
140 điểm
5. Quản lý chất lượng quá trình
140 điểm
6. Các kết quả về chất lượng và
kinh doanh
250 điểm
7. Thỏa mãn yêu cầu của khách hàng
250 điểm
Tổng cộng:
1.000 điểm
Giải thưởng gồm 2 loại : Giải vàng: xét trong phạm vi cả
nước
Giải bạc: xét
trong tỉnh, thành phố.
2.5
Một số hệ thống khác.
2.5.1
HACCP (Hazard Analysis Critical Control Points).
Đây là tiêu chuẩn kỹ thuật kiểm tra thực phẩm do Viện Hàn
Lâm khoa học thực phẩm Mỹ nghiên cứu, cho ra đời năm 1971 và
sau 16 năm kiểm nghiệm đã đưa vào sử dụng tại Mỹ. Hiện nay nó
đã được nhiều nước và các tổ chức trên thế giới công
nhận và áp dụng. Liên Hiệp Quốc chọn HACCP làm tiêu chuẩn thanh
tra quốc tế về thực phẩm, EU công nhận HACCP làm tiêu chuẩn
thực phẩm của mình. Nội dung của HACCP thực chất là hệ thống
kiểm tra chất lượng sản phẩm chặt chẽ, hiệu quả. Gồm 12 đối
tượng được coi là điểm nóng để liên tục được kiểm tra
theo dõi thường xuyên: nguyên liệu, thành phẩm, phụ liệu, vật
liệu bao gói, nhãn mác, các chất tẩy rửa diệt trùng, bôi trơn,
nhà xưởng và các trang thiết bị vận hành, vệ sinh công nhân...để
phát hiện và ngăn ngừa những điều kiện xấu xảy ra cho sản
phẩm, tránh lây lan qua khâu khác.
Khi áp dụng hệ thống HACCP, doanh nghiệp phải xây dựng
biểu đồ quá trình, xác lập các điểm kiểm soát tới hạn và
những hành động khắc phục. Tất cả phải thể hiện bằng các
tài liệu tương ứng và phải được thẩm tra xác nhận.
Hệ thống nầy có thể áp dụng xuyên suốt dây chuyền sản
xuất thực phẩm; đem lại lòng tin cho người tiêu dùng về an toàn
thực phẩm. Tiêu chuẩn HACCP đặc biệt có ý nghĩa đối với các
doanh nghiệp kinh doanh hàng thủy sản, nhất là khi các doanh nghiệp
này muốn bán hàng sang Nhật Bản, Châu Âu và Châu Mỹ.
2.5.2
GMP (Good Manufacturing Practice)
Hướng dẫn thực hành tốt sản xuất
thuốc thuộc khối ASEAN (GMP) được triển khai lần đầu năm 1984
và được cuộc họp lần thứ 5 về hợp tác kỹ thuật trong lĩnh
vực dược phẩm tổ chức tại Bangkok thông qua, và được sửa
chữa lại năm 1988.
Tại cuộc hợp lần thứ 13 của nhóm công tác về hợp tác
kỹ thuật trong lĩnh vực dược phẩm của khối ASEAN, Inđonesia
với tư cách là nước điều hành GMP- ASEAN đã thành lập ban sửa
đổi cho bản công bố lần 2. Do sự phát triển của khoa học kỹ
thuật trong lĩnh vực dược phẩm, ban sửa đổi đã dự thảo
sửa chữa và bổ sung cho lần xuất bản mới, bao gồm cả việc
chấp nhận qui chế và hướng dẫn sử dụng dược phẩm của MCA
1993, qui chế liên bang FDA, GMP của Australia cho các sản phẩm trị
liệu, có tham khảo hệ thống chứng nhận của WHO đối với các
dược phẩm trong thị trường quốc tế, cũng như GMP quốc tế và
các quốc gia khác.
Nhằm góp phần thúc đẩy việc thực hiện chính sách quốc
gia về thuốc của Việt Nam, ngày 9/9/96, Bộ y tế đã quyết định
chính thức áp dụng GMP - ASEAN tại Việt Nam.
Mục đích của GMP là để đảm bảo một cách chắc chắn
rằng sản phẩm được sản xuất ra một cách ổn định, đạt
chất lượng qui định, hợp với mục đích sử dụng đã đề ra.
GMP đề cập đến mọi khía cạnh của việc sản xuất và kiểm
tra chất lượng thuốc mà doanh nghiệp phải tuân theo.
Các yêu cầu này tương đồng, dù mức độ có khác nhau,
với các yêu cầu trong lĩnh vực sản xuất của tiêu chuẩn ISO9000
vì thế doanh nghiệp có thể mở rộng để chuyển từ việc áp
dụng GMP sang ISO9000 một cách nhanh chóng.
Tiêu chuẩn GMP gồm 10 chương: qui định chung, nhân sự, nhà
xưởng, thiết bị, hệ thống vệ sinh, sản xuất, kiểm tra chất
lượng, tự thanh tra, xử lý sản phẩm thu hồi, khiếu nại của các
dược phẩm bị trả lại và tài liệu. Ngoài ra còn có các phụ
lục về sản xuất sản phẩm sinh học, sản xuất sản xuất gas,
sản xuất bình xịt phân liều áp suất, sản xuất các chế phẩm
y học từ máu người hoặc thành phẩm của máu.
Nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dược phẩm của
Việt Nam đã áp dụng được tiêu chuẩn này và nâng cao chất lượng
sản phẩm sản xuất, dịch vụ của họ. Trong số đó, xí nghiệp
liên hiệp dược Hậu Giang đã tiến lên đạt được giấy chứng
nhận ISO9002
2.5.3 ISO14000
Các tiêu chuẩn ISO14000 được xây dựng dựa trên nguyên
tắc đơn giản: việc quản lý môi trường càng được hoàn
thiện thì tác động đối với môi trường cũng ngày càng được
hoàn thiện, hiệu quả càng cao và thu hồi vốn đầu tư càng
nhanh.
Các tiêu chuẩn ISO14000 miêu tả được những yêu cầu cơ
bản của hệ thống quản lý môi trường hữu hiệu, bao gồm
việc xây dựng một chính sách về môi trường, xác định các
mục đích và mục tiêu chương trình thực hiện để đạt mục tiêu,
giám sát và đánh giá tính hiệu quả của nó, kiểm tra
và điều chỉnh hệ thống và cải thiện tác động đối
với môi trường.
Việc áp dụng ISO14000 đối với doanh nghiệp ngày càng bức
bách hơn khi môi trường đang trở thành vấn đề toàn cầu và
mọi người ngày càng quan tâm nhiều hơn đối với vấn đề môi
trường.
Ngày nay, nhiều doanh nghiệp có xu hướng áp dụng cùng một
lúc ISO9000 và ISO14000 để tận dụng các lợi thế về chi phí cho
việc xin cấp giấy chứng nhận.
Muốn thực hiện việc quản trị chất lượng một cách
hiệu quả trong doanh nghiệp, đòi hỏi mọi thành viên của tổ
chức phải am hiểu, sử dụng một cách thành thục và hiệu quả
các công cụ quản trị chất lượng, tạo tiền đề cho việc
cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm. Có rất nhiều công
cụ và kỹ thuật hỗ trợ khác nhau để quản trị chất lượng,
trong chương này, chúng ta đã xem xét một số công cụ cơ bản như
sau:
- Kiểm soát chất lượng bằng thống kê (SQC- Statistical
Quality Control).
- Vòng tròn DEMING.
- Nhóm chất lượng.
SQC là việc áp dụng các phương pháp thống kê để thu
thập, trình bày, phân tích dữ liệu một cách đúng đắn, chính xác
và kịp thời nhằm theo dõi, kiểm soát, cải tiến quá trình hoạt
động của tổ chức bằng cách giảm tính biến động của nó.
Chừng nào sản xuất còn phụ thuộc vào nguyên vật liệu đầu
vào, máy móc thiết bị và con người thì chắc chắn sẽ còn xảy
ra biến động giữa thực tế và kế hoạch, các biến động này
có thể là tự nhiên vốn có của quá trình và không cần điều
chỉnh. Các biến động cũng có thể là bất thường, ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm thì nhất thiết phải kiểm soát và
điều chỉnh kịp thời.
Bảng
7.1 Các công cụ của SQC theo
ISO9000 gồm:
Công
cụ và kỹ thuật |
Ứng
dụng |
1.
Mẫu thu thập dữ liệu |
Thu
thập dữ liệu một cách hệ thống để có bức tranh rõ ràng
và thực tế. |
Công cụ và kỹ thuật cho các dữ liệu không bằng
số |
|
2.
Biểu đồ quan hệ |
Ghép
thành nhóm có một số lớn ý kiến, quan điểm hay vấn đề
có liên quan về một chủ đề cụ thể. |
3.
So sánh theo chuẩn mức |
So
sánh một quá trình với các quá trình đã được thừa nhận
để xác định cơ hội cải tiến chất lượng. |
4.Tấn
công não |
Xác
định các giải pháp có thể cho các vấn đề và các cơ
hội tiềm tàng cho việc cải tiến chất lượng. |
5.
Biểu đồ nhân quả |
Phân
tích và thông báo các mối quan hệ nhân quả. Tạo
điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vấn đề từ
triệu chứng, nguyên nhân đến giải pháp. |
6.Biểu
đồ tiến trình |
Mô
tả quá trình hiện có |
7.
Biểu đồ cây |
Biểu
thị mối quan hệ giữa chủ đề và các yếu tố hợp thành. |
Công
cụ và kỹ thuật cho các dữ liệu bằng số. |
|
8.
Biểu đồ kiểm soát |
Phân
tích : đánh giá sự ổn định của quá trình. Kiểm
soát : xác định khi một quá trình cần điều chỉnh và khi nào
cần để nguyên hiện trạng. Xác
nhận : xác nhận sự cải tiến của quá trình. |
9.
Biểu
đồ cột |
Trình
bày kiểu biến thiên của dữ liệu. Thông
tin dưới dạng hình ảnh về kiểu cách của quá trình. Quyết
định nơi tập trung nỗ lực cải tiến. |
10.Biểu
đồ Patero |
Trình
bày theo thứ tự quan trọng sự đóng góp của từng cá thể
cho hiệu quả chung. Xếp hạng các cơ hội cải tiến. |
11.Biểu
đồ tán xạ |
Phát
hiện và xác nhận mối quan hệ giữa hai tập số liệu có liên
hệ với nhau. Xác
nhận mối quan hệ dự tính giữa hai bộ số liệu có quan
hệ với nhau. |
Việc áp dụng
SQC giúp ta:
- Tập hợp số liệu dễ dàng.
- Xác định được vấn đề.
- Phỏng đoán và nhận biết nguyên nhân.
- Ngăn ngừa sai lỗi.
- Xác định được hiệu quả cải tiến.
Do DEMING giới thiệu năm 1950, gồm 4 giai đoạn viết tắt là
P-D-C-A.
Với:
P (Plan): Lập kế hoạch, định lịch và phương pháp đạt
mục tiêu.
D (Do): Đưa kế hoạch vào thực hiện.
C (Cheek): Dựa theo kế hoạch để kiểm tra thực hiện.
A (Act) : Thông qua kết quả đạt được để đề ra những tác
động điều chỉnh thích hợp, nhằm bắt đầu lại chu trình với
những thông tin đầu vào mới.
Mỗi một giai đoạn của vòng tròn Deming thường sử dụng các
kỹ thuật hỗ trợ riêng biệt. Ví dụ, ở giai đoạn lập kế
hoạch các công cụ được sử dụng là: biểu đồ kiểm soát,
biểu đồ Pareto, biểu đồ cột...
Vòng tròn Deming được áp dụng một cách liên tục trong
việc quản lý chất lượng nhằm từng bước cải tiến và nâng
cao chất lượng sản phẩm, chất lượng công việc. Bước khởi
đầu (P) của vòng tròn mới được dựa trên kết quả của vòng
tròn trước nhằm giải quyết tiếp các vấn đề còn tồn tại...
và như thế sau nhiều lần áp dụng vòng tròn Deming chất lượng
sản phẩm sẽ nâng cao dần và liên tục.
Nhóm chất lượng là một nhóm nhỏ từ 3 - 10 người được
lập ra để thực hiện các hoạt động quản lý chất lượng
(kể cả những vấn đề khác liên quan đến nơi làm việc), dựa
trên tinh thần tự nguyện, tự ý và tự quản trên cùng một chỗ
làm việc.
Trưởng nhóm do các thành viên trong nhóm tự bầu ra, không
nhất thiết phải là tổ trưởng sản xuất hay đốc công.
Nhóm thường họp mỗi tuần một lần trong hoặc ngoài giờ
làm việc để thảo luận các vấn đề do nhóm lựa chọn liên
quan đến các lĩnh vực chất lượng, năng suất, chi phí, an toàn và
các vấn đề khác có liên quan đến công việc của mình.
Nhóm chất lượng theo dõi quá trình sản xuất hay các thủ
tục tác nghiệp để nhận diện, phân tích và giải quyết các
vấn đề chất lượng.
Nhóm
chất lượng là một phần của hoạt động chất lượng ở phạm
vi công ty
3.1
Cơ
sở để hình thành nhóm chất lượng là:
- Khai thác tối đa khả năng con người, thông
qua hoạt động nhóm, nghiên cứu cách thức cải tiến công việc,
từng thành viên đều nâng cao hiểu biết về công nghệ và kỹ
thuật quản lý nhờ đó dễ dàng thích nghi với thay đổi.
- Tôn trọng con người và tạo không khí vui tươi phấn
khởi ở nơi làm việc.
- Cống hiến các cải tiến giúp phát triển doanh nghiệp.
3.2
Các nguyên tắc của nhóm
chất lượng.
- Tự mình phát triển: các thành viên tìm tòi học hỏi để
năm vững kỹ thuật và kỹ năng cần thiết. Tự phát triển và
hỗ tương phát triển gắn bó nhau.
- Hoạt động tự nguyện: không áp đặt sai bảo.
- Hoạt động nhóm, tập thể: Thông qua việc chia
sẻ thông tin và kiến thức cho nhau, nhóm có sức mạnh trong
việc giải quyết các vấn đề khó khăn trong sản xuất kinh doanh
và các thành viên sẽ trưởng thành lên.
- Mọi người đều tham gia: Làm
sao cho mọi người phát huy hết năng lực đến tạo sự phấn
khởi tự tin hơn là chỉ có một số người làm.
- Áp dụng những kỹ thuật quản trị chất lượng.
- Hoạt động cơ bản là nơi làm việc: vì nó nhằm chỉ
cải tiến công việc tại nơi mình làm, các nhà quản trị cần động
viên khuyến khích hoạt động nhóm.
- Duy trì hoạt động của nhóm chất lượng: cấp quản trị
cần có những biện pháp duy trì hoạt động của nhóm từ phía
sau, tạo sự hứng thú cho nhóm hoạt động (gợi ý những việc
cần làm...)
- Cùng nhau phát triển: tạo thói quen hội ý, thảo luận, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm.
- Tính sáng tạo: mục tiêu của nhóm là sáng tạo của các nhóm viên để cải tiến chất lượng, các nhóm viên tự giác cải tiến và sáng tạo trong công việc.
- Ý thức về chất lượng: ý thức về khó khăn và ý thức
về cải tiến. Mục tiêu
chủ yếu là kiến tạo chất lượng ngay trong công việc của mình
phụ trách.
1.
Khái niệm
sản phẩm? Khái niệm chất lượng
sản phẩm
2.
Những tính
chất đặc trưng của chất lượng sản phẩm ?
3.
Khái niệm
quản lý chất lượng ? Quản lý chất lượng toàn bộ?
4.
Tầm quan
trọng của trị chất lượng ?
5.
Nêu khái
niệm đảm bảo chất lượng? Hệ thống đảm bảo chất lượng ?
6.
Nêu những
nội dung cơ bản của hệ thống ISO 9000?
7.
Nội dung cơ
bản của hệ thống TQM? Hệ thống chất lượng Q.Base
8.
Những
nội dung chủ yếu của họat động quản lý chất lượng trong
doanh nghiệp ?